Diễn Đàn Chia Sẻ Nội Bộ Melody Team

oOo
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
News & Announcements
  • Gallery & Others
 Administrator (960)
 ™___ߣµε___™ (133)
 Pe (122)
 lamcanhtan2009 (107)
 Y3p_luv (81)
 Nguyễn Tấn Tài (55)
 YepLuv (50)
 I AM Kab4l (42)
 DuongQuaPro (41)
 Nine tail fox (39)

Share
 

 Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Administrator
Administrator
Administrator
Administrator

Pet Shop Vào Cửa Hàng Pet
Posts : 960
Points : 45070
Thanked : 22
Ngày tham gia : 28/07/2011

Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Empty
Bài gửiTiêu đề: Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối   Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Icon_minitimeOctober 9th 2011, 12:59

David Appell - Physics World, tháng 10/2011

Những lỗ đen lang thang bị tống cổ ra khỏi hang ổ thiên hà của chúng là một trong những dự đoán bất ngờ nêu ra bởi những nhà vật lí sử dụng những cỗ máy vi tính mạnh để giải các phương trình Einstein của thuyết tương đối tổng quát. David Appell trình bày về cái mà một số người đã đặt tên là “thời đại vàng son mới” của thuyết tương đối.


Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Appell1

Một mô phỏng của hai lỗ đen đang lướt qua nhau và phát ra sóng hấp dẫn. (Ảnh: Werner Benger/AEI/CCT/ZIB)

Các phương trình Einstein của thuyết tương đối tổng quát trông như dãy núi Hamilaya vậy – đẹp và hùng vĩ khi nhìn từ xa, nhưng lại trơn tuột và đầy kẻ nứt khi tiến đến gần. Trong số những người liều lĩnh làm việc với chúng, không phải ai cũng sống sót mà bước trở ra. Là một tập hợp gồm 10 phương trình vi phân riêng phần phi tuyến, độc lập, các phương trình Einstein liên hệ năng lượng và vật chất trong một vùng không gian với hình học của nó. Thật đơn giản đến bất ngờ khi biểu diễn ở dạng hình học, ngôn ngữ độc lập tọa độ của những tensor mà Einstein cuối cùng đã tìm ra, các phương trình trên – khi áp dụng cho những tình huống thực tế - thật đáng tiếc lại trở nên kết hợp với thứ hoang dại mà không một nhà vật lí nào thuần hóa nổi kể từ thời Newton.

Các phương trình Einstein của thuyết tương đối tổng quát chỉ có thể giải chính xác trong vài ba trường hợp – với một trong những nghiệm đầu tiên như thế, và có lẽ là nghiệm nổi tiếng nhất của nó, được suy luận ra bởi nhà thiên văn học người Đức Karl Schwarzschild vào năm 1916 cho trường hợp đơn giản một vật tĩnh, hình cầu, không tích điện trong chân không. Các giả thuyết của Schwarzschild, và thuật toán của ông, đơn giản các phương trình Einstein đến một phương trình vi phân bình thường mà ông có thể giải dễ dàng, mặc dù ngay cả một bậc thầy như ông cũng cảm thấy bất ngờ trước khả năng có một nghiệm chính xác. “Nghiệm Schwarzschild” một cách tự nhiên đã đưa đến khái niệm lỗ đen, mặc dù bản thân Schwarzschild chưa bao giờ hiểu thấu tầm quan trọng của sự kì dị trong nghiệm của ông, vì ông đã qua đời 4 tháng sau đó ở tiền phương nước Nga trong Thế chiến thứ nhất. Ngay cả Einstein cũng nghĩ điểm kì dị Schwarzschild – bán kính tại đó nghiệm là không hợp lí do chia cho không – là vô nghĩa về phương diện vật lí, và chỉ hàng thập kỉ sau này thì chiều sâu của nghiệm Schwarzschild mới nở hoa trong thời kì vàng son thứ nhất của thuyết tương đối tổng quát, kéo dài từ khoảng năm 1960 đến 1975, với những tên tuổi như Roger Penrose, Kip Thorne, Stephen Hawking và nhiều người khác.

Khi các lí thuyết phát triển, thuyết tương đối tổng quát đã có sự thành công to lớn. Nổi tiếng nhất là những nghiệm gần đúng ban đầu của nó đã giải thích cho một sự chênh lệch đã biết trong quỹ đạo của Thủy tinh mà người ta không thể nào giải thích hoàn toàn bằng vật lí học Newton cổ điển, mang lại một giá trị cho sự chênh lệch đó phù hợp với các phép đo thiên văn. Các phương trình Einstein còn dự đoán rằng ánh sáng bẻ cong trong một trường hấp dẫn và tín hiệu radar bị trễ khi phản xạ khỏi một trong những hành tinh nhóm trong của hệ mặt trời của chúng ta. Tuy nhiên, những thành công này đều dựa trên sự gần đúng “hậu Newton” của những phương trình Einstein đầy đủ, trong đó những tốc độ là nhỏ so với tốc độ ánh sáng và trường hấp dẫn là yếu. Thuyết tương đối tổng quát Einstein chưa bao giờ được kiểm tra trong chế độ “trường mạnh” khác biệt rất nhiều.

Tuy nhiên, nhờ những siêu máy tính nhanh và cực mạnh, ngày nay các nhà vật lí có thể nghiền ngẫm bằng cách thuần hóa lực qua các phương trình Einstein, sử dụng những thuật toán điện toán tiên tiến. Sử dụng cái gọi là “thuyết tương đối số”, chúng ta có thể khảo sát những chế độ vật lí trong đó không-thời gian khác xa với thế giới đơn giản, phẳng, 4D của thuyết tương đối đặc biệt, thu được những nghiệm chính xác ở cả nơi lực hấp dẫn là mạnh và ở cả nơi không gian và thời gian bị kéo dãn hoặc xoắn lại. Thật vậy, các nhà lí thuyết đã có một số đột phá quan trọng trong việc giải các phương trình Einstein trên máy vi tính, dẫn tới những tiên đoán đặc biệt mà các nhà thiên văn ngày nay có thể kiểm tra.

Với sự phân tích và quan sát hội tụ lại, người ta đã thu được những cái nhìn sâu sắc mới về một số hiện tượng ngoạn mục và giàu năng lượng nhất trong vũ trụ, hóa ra đang thúc đẩy các nhà tương đối học số nghiên cứu những hệ ngày một phức tạp hơn, tỏng những chế độ mà các nhà vật lí trước đây chưa bao giờ xâm nhập tới. Những phương pháp này đã làm sáng tỏ khả năng của những lỗ đen “lêu lổng”, bị tống cổ ra khỏi hang ổ thiên hà của chúng để lẳng lặng lao đi trong không gian giữa các sao. Chúng còn trở thành một công cụ để tìm hiểu cơ chế động lực học của các cặp lỗ đen, để khảo sát phương trình trạng thái của sao neutron, và để giúp chúng ta thiết kế ra những máy dò tương lai đặt trên không gian săn tìm sóng hấp dẫn – những dao động nhỏ xíu trong cấu trúc của bản thân không-thời gian. Như được biết, đó chính là thời kì vàng son mới của thuyết tương đối tổng quát.

Tinh vi và hiểm độc

Kể từ thập niên 1960, các nhà tương đối học đã cố gắng giải các phương trình Einstein bằng phương pháp số, nhưng việc rút ra cơ sở vật lí từ thậm chí những trường hợp đơn giản thôi cũng tỏ ra hết sức khó khăn. Ngay từ đầu, các nhà lí thuyết đã thiết lập những phương pháp khéo léo nhằm đóng gói bài toán cho máy vi tính xử lí bằng cách chia không-thời gian 4D thành một chồng mặt 3D được đánh nhãn bằng một thông số thời gian. Nhưng những ai sử dụng cách tiếp cận như thế đều nhận thấy các chương trình máy tính của họ bị phá sản sau khi trở nên mất ổn định và chịu sai số lớn – thậm chí trong những trường hợp đơn giản như hai lỗ đen va chạm trực diện với nhau. Dường như Einstein rốt cuộc cũng chẳng đúng: bài toán ấy vừa tinh vi lẫn hiểm độc.

Bài toán đó lại trở nên cấp thiết hồi thập niên 1990 khi nước Mĩ bắt đầu lên kế hoạch cho Đài thiên văn Sóng hấp dẫn Giao thoa kế Laser (LIGO) – hai giao thoa kế khổng lồ ở Washington và Louisiana cuối cùng bắt đầu thu thập dữ liệu vào năm 2002 trong cuộc truy tìm vẫn đang diễn ra tìm kiếm sóng hấp dẫn. Để trích ra những tín hiệu sóng hấp dẫn nhỏ xíu từ phông nền nhiễu, các nhà thiết kế cần phải biết dạng thức chính xác của sóng hấp dẫn mà người ta hi vọng sẽ lan qua trên thiết bị - nhất là biên độ và tần số của chúng – vì những dao động này sẽ được xác định chính xác bởi những cánh tay của giao thoa kế thay đổi chiều dài của chúng bao nhiêu, và bao nhanh. Nhưng lúc ấy, các nhà lí thuyết đang nghiên cứu các hiện tượng thiên văn vật lí mà người ta trông đợi phát ra những sóng như thế, đặc biệt là hai lỗ đen hợp nhất, chỉ có thể hỗ trợ các nhà thiết kế LIGO với những gợi ý chung chung mà thôi. “Hồi thập niên 1990, các phương trình Einstein cho hai lỗ đen đang va chạm trở thành món chén thánh của thuyết tương đối tổng quát”, Laura Cadonati, một nhà hiện tượng học hấp dẫn tại trường Đại học Massachusetts ở Amherst, nhớ lại. Ông là người đã áp dụng các kết quả số cho các hệ thiên văn vật lí.

Vấn đề thật không đơn giản. Ngoài việc tạo ra sự mất ổn định, các chương trình cuối cùng còn cần phải chạy trong một khoảng thời gian đủ lâu để có được một vài dấu hiệu sau cùng của một cặp lỗ đen quay quanh nhau, sự hợp nhất của chúng và sau đó là sự ổn định của lỗ đen cuối cùng. Các nhà tương đối học đã bị sa lầy: các máy tính của họ, và nhất là phương pháp của họ, có thể xử lí những phần khác nhau của bài toán – trong hai chiều không gian, hoặc chỉ cho đến khi hợp nhất – nhưng không thể xử lí toàn bộ sự kiện có thể xảy ra trong vũ trụ thực tế.

Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Appell2

Hình 1. Sóng hấp dẫn phát ra trong sự hợp nhất của hai lỗ đen cùng khối lượng M, theo ước tính của Frans Pretorius ở trường Đại học Princeton, sử dụng các mô phỏng của thuyết tương đối tổng quát. Màu xanh lục là biên độ bằng không, màu tím là dương và màu đỏ là âm. Chuỗi thời gian từ trên xuống dưới, từ trái sang phải ở mỗi hàng. Mỗi ảnh cách nhau thời gian 25 M, còn bề rộng và bề cao của mỗi hộp là khoảng 100 M (tính theo đơn vị trong đó hằng số hấp dẫn và tốc độ ánh sáng đều được đặt bằng 1). Vài khung hình đầu có chứa bức xạ giả mạo đi cùng với dữ liệu ban đầu, chúng nhanh chóng rời khỏi khung hình. Hai lỗ đen cuối cùng hợp nhất để chứa một chân trời sự cố duy nhất tại thời điểm 529 M (hàng thứ năm, thứ hai từ trái sang). (Ảnh: Frans Pretorius)

Sau đó, vào năm 2005, một nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại Viện Công nghệ California, phần lớn làm việc một mình, đã làm cộng đồng tương đối học bị choáng với một mô phỏng số ổn định của hai lỗ đen khối lượng bằng nhau, ban đầu không quay xung quanh nhau từ quỹ đạo sau cùng, đơn nhất của chúng đến ổn định (hình 1). Frans Pretorius đã thiết lập các phương trình Einstein theo một cách khác với những người khác đang làm, mang lại cho ông những ít phương trình hơn và dễ giải hơn. Kĩ xảo của ông là sử dụng những tọa độ làm cho các phương trình vi phân từng phần mô tả những biến thiên trong không-thời gian giống hệt với phương trình sóng chuẩn mà các nhà vật lí đã biết và đã quen thuộc.

“Một số thứ đã đến cùng lúc với nhau”, Pretorius nhớ lại sự thành công của ông, “trong đó cũng có sự may mắn nữa”. Pretorius cuối cùng mất hai năm cho vấn đề đó. Ông cho biết ông đã nhận được sự hỗ trợ tích cực từ các đồng nghiệp như David Garfinkle và Carsten Gundlach, rất nhiều sự động viên vật chất lẫn tinh thần, và một chương trình siêu máy tính chạy trong hai tháng.

Pretorius, hiện nay làm việc tại trường Đại học Princeton, nhận thấy sự hợp nhất đó mang lại một lỗ đen quay tròn gấp 1,90 lần khối lượng của một trong hai lỗ đen ban đầu. Nó có một xung lượng góc khoảng bằng 0,70 lần bình phương khối lượng lỗ đen sau cùng, và chừng 5% tổng khối lượng ban đầu của nó bị bức xạ dưới dạng sóng hấp dẫn – những con số trước đó chưa có ai tính ra. Pretorius còn tính ra dạng sóng chi tiết của những phát xạ theo một hàm vô hướng đặc trưng cho không-thời gian, cái có thể liên hệ với biên độ biến thiên theo thời gian của một sóng hấp dẫn và, hóa ra, những biến thiên hết sức nhỏ của chiều dài các cánh tay của một máy dò sóng hấp dẫn. Vì chương trình của ông tiếp tục chạy mà không bị phá sản, Pretorius nghĩ “Ôi trời, chương trình này có thể hoạt động nè”, cho đến khi ông trải qua cái ông cho biết là “phần thưởng tức thời với một liều endorphin” khi nó đã cuối cùng hoàn tất. Kết quả của Pretorius, ngày nay gọi là công thức điều hòa khái quát, đã phá vỡ bế tắc của lĩnh vực nghiên cứu.

Vào cuối năm đó, các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Texas ở Brownsville và Trung tâm Bay Vũ trụ Goddard của NASA, độc lập nhau, đã phát triển một kĩ thuật khác cho các nghiệm số lỗ đen, gọi là phương pháp “đánh thủng động”, phương pháp nhanh chóng được phần đông cộng đồng chấp nhận vì nó chính xác hơn, ngoại trừ ở chỗ là phức tạp hơn về mặt điện toán. Một vật tương tự thô 2D là mô hình của không-thời gian trong đó hai tấm vải song song nhau, mỗi tấm có một cãi đĩa tại chân trời sự cố của một lỗ đen, được may lại với nhau xung quanh chu vi đĩa. Những sự đáng thủng này – phần bên trong của lỗ đen bị loại khỏi vùng điện toán – sau đó di chuyển khắp mạng lưới biểu diễn không-thời gian khi sự điện toán diễn ra, thể hiện sự chuyển động trong thời gian của chân trời sự cố của lỗ đen.

Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Appell3

Hình 2. Mô phỏng của một cặp lỗ đen đang quay tròn có khối lượng bằng nhau. Khi hai lỗ đen quay xung quanh nhau, chúng ảnh hưởng đến plasma xung quanh, gây ra những vòi bức xạ điện từ được cấp năng lượng từ động năng của lỗ đen (màu xanh lục/xanh lam). Trên nguyên tắc, các nhà thiên văn có thể nghiên cứu hệ bằng cách phát hiện bức xạ này – cũng như sóng hấp dẫn phát ra khi hai lỗ đen tương tác. (Ảnh: Luis Lehner, Steven L Liebling, David Neilsen và Carlos Palenzuela).

“Mọi người thích ứng rất nhanh, với cả hai phương pháp”, phát biểu của Luis Lehner thuộc Viện Vật lí Lí thuyết Perimeter ở Waterloo và trường Đại học Guelph, cả hai đều ở Canada. Thách thức hiện nay cho Lehner lẫn những người khác là tìm xem “chúng ta có thể đi tới câu trả lời bao nhanh, và chúng ta có thể tìm kiếm điều không ngờ đó ở đâu để mở rộng kiến thức của chúng ta và làm phát sinh thêm những câu hỏi mới”. Các nhà nghiên cứu tại Goddard sớm tính ra, lần đầu tiên, sự hợp nhất của những lỗ đen khối lượng không bằng nhau, nghiên cứu trong quá trình giật lùi của lỗ đen sau cùng. Kết quả trên được tìm thấy chỉ phụ thuộc vào tỉ số của khối lượng của hai lỗ đen hợp nhất, chứ không phụ thuộc giá trị khối lượng của riêng từng lỗ đen, làm cho dạn sóng hấp dẫn tính được là có thể áp dụng cho nhiều tình huống thiên văn vật lí đa dạng. Tổng năng lượng giải phóng trong quá trình đó – và thời gian cần thiết cho hai lỗ đen hợp nhất – tỉ lệ với tổng khối lượng, nghĩa là sự hợp nhất có thể trong thời gian ngắn tỏa sáng hơn tất cả các ngôi sao trong vũ trụ kết hợp lại.

Những mô phỏng đầu tiên này là thuộc những lỗ đen ban đầu không quay tròn trước khi chúng va chạm, và không bao lâu sau thì một nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Texas ở Brownsville đã tiến hành nghiên cứu đầu tiên của sự hợp nhất của những lỗ đen đang quay tròn – với cả hai trường hợp trục quay của chúng thẳng hàng và không thẳng hàng. Thật vậy, những tiến bộ liên tục về kĩ thuật và công suất điện toán đã cho phép các nhà nghiên cứu tính ra cái xảy ra khi những lỗ đen đang quay tròn này va chạm trong nhiều quỹ đạo khác nhau. Các nhà lí thuyết và nhà thực nghiệm bắt đầu hòa hợp, không còn cay cú như chó với mèo nữa, như Cadonati lịch sự nói “để cải thiện tiềm năng của khoa học sóng hấp dẫn và làm thế nào cho phù hợp với thiên văn học vật lí” (hình 2). Các nhà lí thuyết tất bật đưa những con số thực tế vào trong những phương trình đẹp đẽ của họ, còn các nhà thực nghiệm thì cố moi những ghi chép thời nghiên cứu hậu tiến sĩ của họ về phân tích tensor.

Các lỗ đen bị sút văng đi

Vào năm 2007, các nhà tương đối học số đã tìm thấy một sự hợp nhất bất ngờ những mô phỏng của họ. Những xét đoán trực tiếp của cơ chế cơ học của những lỗ đen khối lượng không bằng nhau, đang quay tròn, cho thấy, để bảo toàn xung lượng góc, bức xạ hấp dẫn mà chúng tạo ra sẽ không phát ra đồng đều theo mọi hướng. Hàm ý là lỗ đen sau cùng được tạo ra khi hai vật thể va chạm phải có một xung lượng tuyến tính nào đó so với khối tâm: nói chung, chúng sẽ nhận một “cú sút”. Nhưng những mô phỏng đầy đủ của Manuela Campanelli cùng những đồng sự tại Viện Công nghệ Rochester ở New York, và sau đó là José González cùng các cộng sự tại trường Đại học Jena ở Đức, cho thấy xung lượng này là không nhỏ: lỗ đen cuối cùng có thể có tốc độ lớn tới 4000 km/s đối với hai lỗ đen đang quay tròn theo hướng ngược nhau. (Để so sánh, những ngôi sao ở gần Mặt trời của chúng ta hiếm khi chuyển động đến vài chục km/s).

Gần đây, những tốc độ còn cao hơn, hay “siêu sút”, đã được tìm thấy lên tới 15 000 km/s, với một số nhà lí thuyết đề xuất rằng những tốc độ cao hơn ba lần nữa – hay bằng 15% tốc độ ánh sáng – có lẽ là có thể. Vì những cú sút như thế sẽ lớn hơn vận tốc thoát của bất kì thiên hà nào, nên kết quả trên mở ra khả năng có những lỗ đen cư trú trong những quầng thiên hà ở xa nhân thiên hà của chúng, hay có lẽ còn có những lỗ đen độc lập, lang thang trôi giạt trong vũ trụ. Những lỗ đen này phần lớn sẽ không được nhìn thấy cho đến khi chúng đi lạc vào, nói thí dụ, đám mây Oort của các sao chổi nằm cách Mặt trời khoảng một năm ánh sáng, khi đó người ta có thể phát hiện ra chúng qua những sự lệch bí ẩn, nhỏ xíu trong sự chuyển động của các sao chổi hay tiểu hành tinh. Một sự kiện ít có khả năng xảy ra là một lỗ đen lêu lỏng đi qua hệ mặt trời của chúng ta, nên chúng ta không nên lo lắng về khả năng này.

Kém thê thảm hơn, những cú siêu sút có những gợi ý cho những ai đang tìm kiếm sóng hấp dẫn. Những lỗ đen bị tống vọt ra khỏi những đám sao hình cầu – tập hợp những ngôi sao quay xung quanh nhân thiên hà như một vệ tinh – sẽ làm giảm tốc độ hợp nhất sau đó đối với những lỗ đen còn lại trong đám, và vì thế sẽ làm giảm số lượng sóng hấp dẫn đi tới máy dò sóng. Những cú giật lùi lớn cũng sẽ loại bỏ những lỗ đen vận tốc cao, và có thể ràng buộc những lỗ đen mầm nhỏ sẽ hợp nhất thành lỗ đen lớn hơn bao sớm trong vũ trụ.

Thư Viện Vật Lý
Về Đầu Trang Go down
https://melody.forum-viet.com
Administrator
Administrator
Administrator
Administrator

Pet Shop Vào Cửa Hàng Pet
Posts : 960
Points : 45070
Thanked : 22
Ngày tham gia : 28/07/2011

Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối   Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Icon_minitimeOctober 9th 2011, 13:03

Quang phổ học của bầu trời

Thuyết tương đối số đã giữ một vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm sóng hấp dẫn, cho dù sự phức tạp của những lỗ đen lang thang có lẽ là cái sau cùng mà những ai tham gia nghiên cứu cần đến, biết rằng việc phát hiện ra những gợn sóng nhỏ xíu này khó khăn biết chừng nào. Vấn đề là mặc dù những nguồn phát như những hệ sao đôi phát ra rất nhiều năng lượng dưới dạng sóng hấp dẫn - ở tốc độ 1028 W hoặc cao hơn – nhưng khi những sóng này đi tới Trái đất, sự lệch của chúng khỏi không gian phẳng sẽ làm thay đổi chiều dài của một cánh tay giao thoa kế đi chỉ 10–18 , hay còn thấp hơn nữa. Các giao thoa kế sóng hấp dẫn, như LIGO ở Mĩ, VIRGO ở Italy, TAMA ở Nhật Bản và GEO600 ở Đức, vì thế phải phát hiện ra những chênh lệch chiều dài nhỏ xíu khi một sóng hấp dẫn lan qua trên chúng.

Những người săn tìm sóng hấp dẫn đặc biệt hứng thú với những lỗ đen khối lượng sao và những lỗ đen siêu khối vì chúng tạo ra những sóng ở tần số 10 – 10 000 Hz khi chúng hợp nhất – đúng ngay ngưỡng mà những máy dò sóng mặt đất như LIGO là nhạy nhất. Nhưng vì Trái đất là nơi hơi chao đảo, nên những người tìm kiếm sóng hấp dẫn cần có một số chỉ dẫn khi họ cố gắng phân biệt những thăng giáng nhỏ xíu của sóng hấp dẫn với sự dịch chuyển địa chấn và thậm chí sự dao động do những đoàn tàu chạy qua. Việc biết được sóng gì lan qua sẽ hỗ trợ họ rất nhiều.

Tiến đến kết thúc vấn đề này, dự án Phân tích Tiêm Số (NINJA) đã khởi động vào năm 2008, mang những nhõm tương đối học số và những đội phân tích dữ liệu từ 30 trường viện trên khắp thế giới lại với nhau. Các nhà tương đối học cung cấp những mẫu dạng sóng ở dạng những tệp dữ liệu ASCII ghi rõ những tiên đoán của họ cho sức nặng biến thiên theo thời gian của các sóng khi phân tích thành những dạng điều hòa cầu. Những phân tích này phải bao quát những ngưỡng tham số rộng của những sự hợp nhất lỗ đen – tỉ số khối lượng, spin và độ lệch tâm – có khả năng xảy ra nhất. Ngay cả trường hợp đơn giản gồm một lỗ đen đôi cũng có tới 17 biến, hay bậc tự do, trong số các sắp xếp nguồn và máy dò.

Nhưng phương pháp luận như trên có phát huy tác dụng. Ngày 16 tháng 9 năm 2010, chẳng hạn, các nhà khoa học máy dò sóng đã được cảnh báo sự tới nơi của một tín hiệu “chiêm chiếp” chỉ vài phút sau khi nó tới. Sau khi phân tích, các thành viên của chương trình hợp tác LIGO và VIRGO đã báo cáo khám phá ra sóng hấp dẫn, có vẻ đến từ một sao neutron đang chạy xoắn ốc vào trong một lỗ đen. Họ còn viết một bài báo về nó nữa. Họ nói có thể đó là một dữ liệu nhiễu. Các nhà nghiên cứu cho biết một khả năng như vậy đã nằm trong tầm tay, và mặc dù bài báo của họ chưa được xuất bản, nhưng các kĩ thuật của họ, cũng như sự thận trọng của họ, đã được xác thực.

Trong khi các kết quả từ thuyết tương đối số đã tiến một chặng đường xa hướng đến hỗ trợ các nhà nghiên cứu sóng hấp dẫn, nhưng chúng còn có thể giữ một vai trò lớn hơn nữa trong những dự án sắp tới, đáng chú ý là cơ sở LIGO Cao cấp – một sự nâng cấp cho LIGO sẽ tìm kiếm một dung tích không gian to hơn gấp 1000 lần cơ sở hiện nay và được trông đợi bắt đầu các hoạt động khoa học trong năm 2015. LIGO thế hệ thứ nhất đã có khoảng 10 000 dạng sóng như trông đợi trong cơ sở dữ liệu của nó, trong khi LIGO Cao cấp sẽ có khoảng 100 000. Không cần phải nói, việc so sánh dữ liệu với một số lượng lớn khả năng như vậy đòi hỏi rất nhiều tài nguyên điện toán.

Thật vậy, hồi tháng 1 năm nay, Quỹ Khoa học quốc gia đã trao cho trường Đại học Syracuse ở Mĩ gần 800 000 đô la để xây dựng một siêu máy tính cuối cùng sẽ có gần 500 terabyte dữ liệu lưu trữ chỉ vì mục đích này. “Các máy dò LIGO Cao cấp là cái người ta đang trông đợi để thật sự mở ra lĩnh vực thiên văn học sóng hấp dẫn”, phát biểu của Duncan Brown, một thành viên của chương trình LIGO. Cỗ máy của Syracuse sẽ là một trong ba dụng cụ như thế được thiết kế cho mục đích này, hai cỗ máy kia đặt tại trường Đại học Wisconsin–Milwaukee và tại Viện Vật lí Hấp dẫn Albert Einstein ở Đức.

Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Appell4

Hình 3. Hình dung một hệ lỗ đen đôi. (Ảnh: Werner Benger/AEI/CCT/ZIB)

Các chi tiết của những dạng sóng hấp dẫn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các nhà tương đối học đã nghiên cứu những hệ phức tạp hơn những lỗ đen đôi, ví dụ như một sao neutron đang va chạm với một lỗ đen, hoặc những cặp sao neutron, và gần đây còn chuyển động những cặp đôi xoắn ốc vào nhau với từ trường ngoài và plasma xung quanh của chúng, tìm thấy những hệ này có thể dẫn tới những vòi phát mạnh có thể quan sát thấy với kính thiên văn tia X. Những tương tác này đòi hỏi nghiệm của các phương trình Einstein đầy đủ kết hợp với các phương trình thủy động lực học cho plasma, cái hóa ra đòi hỏi một phương trình trạng thái cho sao neutron. Vì thế, một ngày nào đó sóng hấp dẫn sẽ có thể giúp chúng ta phân biệt giữa các mô hình khác nhau của sao neutron – một loại “quang phổ học của bầu trời”.

Bổ sung thêm một bộ mặt nữa cho bài toán, Yuichiro Sekiguchi và những nhà lí thuyết khác thuộc trường Đại học Kyoto ở Nhật Bản mới đây đã nghiên cứu hành trạng của một cặp sao neutron mô tả bởi các phương trình Einstein kết hợp với các phương trình thủy động lực học, đồng thời có tính đến sự nguội đi của sao neutron siêu khối cuối cùng bởi sự phát xạ neutrino. Họ tìm thấy cả phổ sóng hấp dẫn lẫn độ rọi của các phát xạ neutrino từ ngôi sao cuối cùng; độ rọi neutrino có thể còn cao hơn cái quan sát thấy trong những vụ nổ sao siêu mới nữa. Các nhà thiên văn học tương lai sẽ nhìn tất cả những sự kiện cực độ này bằng ba con mắt: qua sóng hấp dẫn, sóng điện từ và những vụ nổ neutrino.

Tăng cỡ

Việc nhặt ra những chi tiết tốt nhất sẽ đòi hỏi một thế hệ thứ ba của những máy dò sóng hấp dẫn. Với máy dò LIGO hiện nay, sóng hấp dẫn của một sao đôi neutron chỉ nằm trong một dải có thể phát hiện trong khoảng 25 s (và khoảng 1 s đối với một hệ lỗ đen đôi). LIGO Cao cấp có thể phát hiện ra một dị thường hấp dẫn kéo dài chừng 1000 s, mặc dù đây vẫn chỉ là nghìn giây cuối cùng của một sự hợp nhất đã xảy ra hàng tỉ năm về trước.

Tương lai nằm ở việc tăng cỡ. Hệ thống Anten Vũ trụ Giao thoa kế Laser (LISA) – ba vệ tinh cách nhau năm triệu km trong quỹ đạo kiểu hành tinh xung quanh Mặt trời – sẽ nhìn thấy sóng hấp dẫn (trong dải 0,1 mHz đến 1 Hz) có thể kéo dài hàng giờ, hàng tuần hoặc thậm chí hàng tháng, với độ lệch đỏ 5 – 10. Thật tiếc là sự hiện thực hóa LISA hiện nay không chắc lắm: NASA đã gác lại dự án này trong năm nay, và mặc dù Cơ quan Vũ trụ châu Âu cho biết họ có thể phóng một phiên bản nhỏ hơn, nhưng chưa có quyết định nào được nêu ra tính cho đến nay.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu châu Âu đang có kế hoạch xây dựng cái được đặt tên là Kính thiên văn Einstein – một máy dò sóng hấp dẫn sẽ được xây dựng sâu vài trăm mét dưới lòng đất với hai cánh tay mỗi cánh dài 10 km. Nó sẽ nhạy gấp 10 lần so với LIGO Cao cấp và có thể truy xuất gấp một triệu lần dung tích không gian của các máy dò mặt đất hiện nay. Mặc dù các mô phỏng số tốt nhất ngày nay đã đủ tốt cho độ chính xác cần thiết cho một máy dò như thế, nhưng việc nghiên cứu toàn bộ không gian tham số 9D của một hệ lỗ đen đôi không có vật chất thôi cũng mất chừng một thập kỉ nữa.

Tuy nhiên, cùng với nhiều bước đột phá, thời kì vàng son mới ngày nay của thuyết tương đối đang mở ra những lĩnh vực vật lí rộng lớn chưa được khảo sát qua, với nhiều bất ngờ chắc chắn sẽ xuất hiện. Có thể là gần 100 năm kể từ khi Einstein đi tới những phương trình của ông, nhưng món quà của ông vẫn đang có ý nghĩa. Ngày nay là thời điểm thích hợp để nghiên cứu sự hấp dẫn.

Thuyết tương đối số

  • Thuyết tương đối tổng quát của Einstein mô tả mối liên hệ giữa năng lượng và vật chất trong một vùng không gian và dạng hình học của nó, và đã vượt qua mọi kiểm tra thực nghiệm tính cho đến nay

  • Thật không hay, các phương trình Einstein quá phức tạp và chỉ có thể giải chính xác trong vài ba trường hợp

  • Tuy nhiên, những siêu máy tính mạnh có thể nhai gặm các phương trình ấy một cách không thương tiếc

  • Phương pháp này, gọi là “thuyết tương đối số” đã được sử dụng để nghiên cứu cách thức các lỗ đen hợp nhất, cho thấy trong một số trường hợp chúng có thể tạo ra những lỗ đen lang thang lao đi trong không gian giữa các sao

  • Thuyết tương đối số còn giúp các nhà nghiên cứu tìm kiếm các dấu hiệu của sóng hấp dẫn


Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối Appell5

Subrahmanyan Chandrasekhar đã nhìn thấy các lỗ đen có thể được tạo ra như thế nào. (Ảnh: Science Photo Library)

Lỗ đen

Thật thú vị, mặc dù khó nuốt và nổi tiếng là không thân thiện, những các lỗ đen thuộc về những vật thể đơn giản nhất trong vũ trụ và có thể mô tả đầy đủ chỉ bởi ba đại lượng – khối lượng M của chúng, điện tích Q và xung lượng góc hay “spin” J. Thật vậy, nhà thiên văn vật lí đoạt giải Nobel người Ấn Độ Subrahmanyan Chandrasekhar, người đầu tiên dự đoán rằng chúng có thể được tạo ra khi những ngôi sao lớn qua đời, đã gọi các lỗ đen là “những vật thể vĩ mô hoàn hảo nhất có trong vũ trụ”. Các lỗ đen có ba dạng chính:

1 các lỗ đen khối lượng mặt trời, với khối lượng bằng khoảng 3 – 30 lần khối lượng Mặt trời;

2 các lỗ đen khối lượng trung bình, với khối lượng khoảng 100 – 10 000 lần khối lượng mặt trời, ví dụ (hầu như mọi nhà thiên văn đều tán thành) nguồn phát tia X Siêu Sáng (HLX-1), nằm trong một thiên hà cách Trái đất 290 triệu năm ánh sáng;

3 các lỗ đen siêu khối thống trị tại tâm các thiên hà, với hàng triệu đến hàng tỉ lần khối lượng mặt trời

Tính theo spin, một trường hợp cực độ là lỗ đen Schwarzschild, có spin bằng không, trong khi lỗ đen Kerr cực độ, không mang điện tích, có spin tối đa cho phép bởi thuyết tương đối tổng quát là GM2/c, trong đó G là hằng số hấp dẫn và c là tốc độ ánh sáng.

Tham khảo

J Centrella et al. 2010 Black-hole binaries, gravitational waves, and numerical relativity Rev. Mod. Phys. 82 3069
M Hannam 2009 Status of black-hole-binary simulations for gravitational-wave detection Class. Quant. Grav. 26 114001
D Merritt and M Milosavljevic 2005 Massive black hole binary evolution Living Rev. in Relativity 8 8
F Pretorius 2009 Binary Black Hole Coalescence, in Physics of Relativistic Objects in Compact Binaries: from Birth to Coalescence ed M Colpi et al. Astrophysics and Space Science Library vol 359 (New York, Springer)

David Appell (St Helens, Oregon, Mĩ)

Thư Viện Vật Lý
Về Đầu Trang Go down
https://melody.forum-viet.com
 

Thời kì vàng son mới của thuyết tương đối

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Thuyết tương đối hẹp vẫn giải thích tốt bí ẩn neutrino siêu sáng
» Hiển Đạo - Thanh Sĩ
» Bài Rap Tóm Tắt Lý Thuyết Vật Lý Lớp 12-Zarily
» Thuyết Bigbang
» Kìa Con Bướm Vàng - Xuân Mai [Tặng Hoa Hồng]

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Chia Sẻ Nội Bộ Melody Team :: Góc Học Tập :: Bản Tin - Đố Vui Khoa Học :: Bản Tin Khoa Học - Giáo Dục :: Bản Tin Vật Lý-