Những bức ảnh bên dưới được chụp tại Đại mạc Victoria ở Australia.
Cây Hakea francisiana được đặt tên George Francis, vị giám đốc đầu tiên của Vườn Thực vật Adelaide. Cây trưởng thành cao khoảng 8 m.
Con đường mòn Googs băng qua Vườn bảo tồn Yumbarra và Khu dự trữ sinh quyển Yellabina. Con đường có hơn 300 đồi cát bắt đầu ở phía tây Ceduna và kết thúc tại Tarcoola.
Trái với màu lông xám của nó, chim bách thanh xám (Colluricincia harmonica) có giọng cực khỏe. Nó sinh sống ở vùng rừng cây và bụi rậm trên khắp Australia.
Cây Senna artemisiodes có nhiều ở những vùng khô hanh và hoa nở rộ vào cuối xuân.
Sarcozona praecox là một giống cây mặt lợn nội địa. Nó khác với những giống mặt lợn khác ở chỗ nó cằn cỗi hơn và hoa của nó khuất một phần trong lá.
Đây có lẽ một con nhện huýt sáo. Loài này có mặt ở vùng khô Australia. Vào ban ngày, chúng sống trong hang, và lục lọi tìm thức ăn vào ban đêm. Chúng leo trèo cực giỏi, và có thể bóc trầy thân cây và thủy tinh.
Eremophila glabra, còn gọi là cây nhựa đường, vì nó có lá nhớp nháp nhựa đen. Hình dạng của nó đa dạng, từ nằm phủ rạp cho đến bụi rậm cao 2 m.
Một cái tổ chim. Epthianura ba màu là loài chim nhỏ thường sinh sống theo bầy nhỏ trên những vùng đất trống. Con trống trưởng thành có mào và mào dưới màu đỏ. Con mái đẻ hai đến bốn trứng trong những cái tổ hình cái tách ở gần mặt đất.
Mặc dù chỉ dài chừng 20 cm, nhưng diện mạo của con vật nhiều gai này (Moloch horridus) khiến nó trông to hơn và hung tợn hơn. Nó bò trên vùng đất cát theo kiểu sàng ngang rất ngớ ngẩn. Nó chủ yếu ăn kiến và thu gom sương trên gai sống của nó.
Cây Acacia papyrocarpa lớn cao khoảng 8 m và mang lại tán râm. Nó sống rất thọ với một số cây ước tính tới 1000 năm tuổi. Cây trổ hoa có dạng cầu nhiều tơ và có lá sắc nhọn.
Malleefowl (Leipoa ocellata) là một giống chim có ngón chân dài đắp một ụ cát và cỏ rơm để ấp trứng của nó. Chúng rất nhát và thường người ta thấy vết chân của chúng thì dễ hơn thấy chúng.
Giống đậu sa mạc Sturt (Swainsona Formosa) sinh trưởng trên đất nâu đỏ ở vùng trống. Những bông hoa màu đỏ mắt đen của nó tương phản hẳn với điều kiện khô hanh nơi nó được tìm thấy. Nó là loài hoa biểu trưng của bang Nam Australia.
Đây là con tắc kè gấm đuôi phồng. Đôi mắt to của nó cho phép nó tìm mồi vào ban đêm. Thực đơn yêu thích của nó gồm: dế, nhện, và bọ cạp.
Hồ Googs là một hồ nước mặn trong Vườn bảo tồn Yumbarra tại góc phía đông nam của Đại mạc Victoria. Nó cách đường cao tốc Eyre khoảng 80 km về phía bắc.
Vẹt mào Major Mitchell (Lophochroa leadbeateri) có xu hướng tránh những vùng đất quá khô cằn và những vùng duyên hải ẩm ướt. Chúng ăn cỏ và hạt, quả và rễ cây bạch đàn. Chim bố mẹ cùng nhau chăm sóc chim non và chúng kết duyên với nhau cả đời.
Đỉnh Finke nằm trong Khu dự trữ sinh quyển Yellabina gần đường mòn Googs, cách Ceduna khoảng 140 km về hướng bắc. Đỉnh Finke cao khoảng 360 m. Nó nhô lên đột ngột giữa vùng đất thoai thoải xung quanh.
Vào mùa xuân, Senna artemisioides nhuốm vàng, cùng với bụi rậm màu xanh ngọc bích (Maireana sedifolia) và cúc pom pom trắng Màu tía là cây mulla mulla (Ptilotus exaltatus) và màu bạc là cây đuôi bạc (Ptilotus obvatus).
Cây Grevillea treueriana là đặc hữu của Đỉnh Finke. Nó là một giống cây bụi xòe nhỏ trổ những đám hoa màu đỏ cam treo thòng xuống và nở rộ vào mùa xuân.
Một cây Eucalyptus youngiana lớn lên trên dốc đá của Đỉnh Finke. Đá cuội kiểu Gibber có nhiều cùng với những lớp cứng silcrete và ferricrete giàu sắt.
Eucalyptus youngiana được nhiều người xem là có hoa đẹp nhất trong mọi giống bạch đàn. Nó được đặt tên là Jess Young, một thành viên thuộc đoàn thám hiểm của Ernest Giles hồi năm 1875.
Hoa Eucalyptus youngiana có đường kính tới 75 mm. Nó có màu vàng hoặc đỏ.
Nalara Rock là một khối granite khổng lồ trong Khu bảo tồn Yellabina. Bề mặt khối đá có vô số vết sẹo giống như bồn tắm, một số vết sâu tới 2 m, chúng chứa đầy nước khi trời mưa.