| Tác giả | Thông điệp |
---|
Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Thi Văn November 2nd 2019, 13:59 | |
| - 1939A:
Những bài sáng-tác năm Kỷ-Mão (1939)
LỘ CHÚT CƠ HUYỀN
Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng. Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian. Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo, Tầm Đấng hiền từ cừu thế-gian. Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ, Đạo-đức hiền lành kiến Tiên-bang.
Thiên-địa u-minh dĩ đạo tràng, Thập bát chư hầu lụy há khan. Đao-lý tầm sâu sâu chẳng cạn, Đời cùng ly-loạn khắp chư bang.
Thương hải tang điền ắt chẳng yên, Thiên Địa diệt gian dĩ thiện riêng. Cơ thâm họa diệc từ đây có, Bộ máy thiên-cơ ắt đảo huyền. Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định, Huờn lai Thượng-cổ mới bình yên.
Điên này vốn thiệt ở núi vàng, Thương đời nói rõ việc lầm than. Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh, Yên trí nghĩ suy biết đá vàng.
Ý gì Tiên-Trưởng muồn khuyên đời, Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi! Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng, Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời.
Bi-động từ tâm gọi mấy lời, Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi. Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết, Mà còn nhiều lắm, chúng-sanh ôi!
Nam-Việt cúi lòn dài dặm-dặc, Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời. Đạo-hạnh huyền-cơ khuyên đó kiếm, Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi.
Cồ ngữ hằng ghi thậm khổ đa, Tận diệt nhơn-gian trực tiên khoa. Lão giả hậu qui nhơn ấu giả, Ly-kỳ thiên định dĩ thiên-la.
Tây-Phương trở gót quá xa đàng, Thương xót Nam-kỳ lại An-giang. Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán, Yêu đời mê-muội luống bầm gan.
Thiên-Trước toà sen có chỗ ngồi, Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi. Khắp trong Sáu-Tỉnh toàn giả dối, Xá phướng tăng-sư tạo việc tồi. Thiên-cơ thế-giới đà biến chuyển, Từ rày trần-hạ lợi danh trôi. Tu hành giả dối khuyên khá đổi, Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi.
Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.
CHO ĐỨC ÔNG MẤT GHE
Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan, Bửu sanh du-lịch Lục-Châu giang. Kim-Sơn thương-mãi toàn lê-thứ, Thức tỉnh bá-gia giấc mộng tràng.
(Đức Thầy đọc bài nầy cho Đức Ông nghe và bảo Đức Ông kiếm mấy ông thầy nho mượn bàn thử!). Hòa-Hảo, tháng 7 Kỷ-Mão.
MẶC TÌNH AI (Nhơn việc người ngoại Đao chỉ-trích Đức Thầy)
Bá gia mặn lạt mặc tình ai, Đạo-lý tầm đâu chẳng thấy rày. Chỉ thấy hình trơ thân xác trọi, Ai người tâm đạo nghĩ càng hay; Ai người thích đạo thấy chàng ray.
Thầm thầm tối tối gẫm ai hay, Mặc sức dương-trần chữ đắng cay. Có báu thì ta dành của báu, Ai tầm cho giỏi mới được hay.
Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần, Có một hội nầy rán lập thân. Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.
Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.
BÁNH MÌ
Mì kia gốc phải nước mình không? Nghe thấy rao mì thốt động lòng. Chiếc bánh não-nùng muì khách lạ, Bát cơm đau-đớn máu cha ông. Văn-minh những vỏ trưng ba mặt, Thâm-thía tim gan ứa mấy giòng. Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược, Say mì lắm kẻ bán non sông.
Khải-hoàn dân-chúng mới nhàn an, Dân mảng còn mê giấc mộng tràng. Thảm-thê thế sự mùi cay đắng, Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang.
H.H năm Kỷ-Mão (tại nhà ông Nguyễn-duy-Hinh)
Ông LƯƠNG-VĂN-TỐT hỏi:
(Ông Tốt ở làng Mỹ-Hội-Đông, tỉnh Long-Xuyên)
Mộ đạo ơn trên chưa hiểu danh, Xin ông phân cạn chúng nghe rành. Ba ngàn thế-giới ai là chủ? Mở lượng từ-bi dạy chúng-sanh.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh, Ngặt vì pháp-luật khó phân rành. Càn-khôn muốn biết ai là chủ, Tu hành theo dõi đến mây xanh.
Vì sao thế-giới lại ba ngàn? Học đã rành chưa dến hỏi han? Đã lãm nho văn thì hãy đối, Đáp lời cho vẹn kiến Tiên-bang.
Đời văn-vật say mê khổ thảm, Người nào đà tường lãm nho-văn; Xưa nay mèo-mả lung-lăng, Làm cho quên mất đạo hằng thánh- nhơn. Nay gặp kẻ có cơn thức-tỉnh, Phận làm người thủng-thỉnh sửa-sang. Tay xuống bút nói lang chuyện thế, Bày đạo mầu cứu-tế nhơn sanh; Kia kia các bực công-khanh, Miễu son tạc để đành rành chẳng sai. Hỡi ai kẻ học hay lo liệu, Rứt bụi trần bận-biệu làm chi. Làm cho rồi phận tu-mi, Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm-Non. Chừng Bảy-Núi lầu son lộ vẻ, Thì người già hóa trẻ dân ôi! Tu hành ắt được thảnh-thơi, Lại xem được Phật được Trời báu thay! Thân hành đạo đắng-cay phải chịu, Phận làm người phải liệu cho xong. Cần chi gạn hỏi viển-vông, Làm người chưa vẹn khó hòng thảnh-thơi. Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa, Chữ hiền lành trau-trỉa cho xong; Thấy đời trần hạ long-đong, Chẳng lo khó thấy Mây-Rồng hội kia.
Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.
CHO CÔ TƯ CỨNG Ở HÒA-HẢO (CHÂU-ĐỐC) MẤT ĐỒ
Kích động thiện tâm lụy xót-xa, Thoàn loan trở gót dụng tiên-khoa. Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn, Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra.
Thương đó lòng đây rất thiết-tha, Thiên định số căn mới xảy ra. Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét, Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra.
Hòa-Hảo, ngày 17 tháng 7 năm Kỷ-Mão.
(Bài nầy Đức Thầy bảo cậu út Huỳnh Thạnh-Mậu, bảo đệ của Ngài, đem trao cho cô tư Cứng nói rằng là "của ông thầybói mượn đưa cho cô") L.S.G.- Trong cuốn "Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm" có đoạn nói về chuyện cô tư Cứng mất đồ như vầy:
"Con thuyền đương lướt gió sương, Bỗng nghe tiếng khó tư-lương ai-hoài. Có người ở xóm bằng nay, Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn. Du-thần bày tỏ nguồn cơn, Rằng người nghèo khó đương hờn phận duyên. Điên nghe vội-vã quày thuyền, Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn. Coi rồi bày tỏ thiệt hơn, Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi."
CHO ĐỨC ÔNG VÀ ĐỨC BÀ
Chừng nào viết nọ liền da, (1) Chuột kia mãm hạn khỉ vào vườn hoa. Ấy là thời đại của ta, Thầy ra cứu thế mới là hiển-vinh.
H.H, tháng 8 năm Kỷ-Mão.
"HỐ HÒ KHOAN"(2)
Huỳnh long lộ vĩ ; Bạch-sĩ tiên sanh, Nam-quốc công khanh ; Ra đời cứu tế; Hò xang cự xế; Mắc kế Trương-Lương, Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khi. Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn, Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim. Cửu cửu y nhiên; Tinh riêng tham báu, Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi, Chư bang hàng phục. Anh hố hò khoan; Tinh lang xự xế, Bỏ phế hương thôn; Ra đời bất chiến, Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ rán ghi. Thành công êm thấm; có lắm người yêu.
Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão.
(1) Sau khi đi Tà-Lơn với Đức Thầy về, Đức Ông đau bàn chơn trát ngó hai tháng. (2) Phần nhiều bài của Đức Thầy không có đề tựa. Muốn cho tiện việc sắp-đặt trong quyển sách nầy, chúng tôi tùy theo ý nghĩa của mỗi bài mà đề một cái tựa. Những bài nào có tựa mà chúng tôi chắc rằng do Đức Thầy đặt thì chúng tôi đề vào dấu móc.
HƯƠNG-CHỦ ĐẠT xướng :
(Ông Đạt ở làng Nhơn-Mỹ, tỉnh Long-Xuyên)
Đạo mầu phận tớ hiểu chưa rành, Cầu nguyện Di-Đà độ chúng-sanh. Bể giác, bờ mê mong thoát khỏi, Nhờ thuyền bát-nhã giúp công thành.
ĐỨC THẦY họa:
Thâm diệu rồi đây cũng hiểu rành, Một lòng nguyện độ tận nhơn-sanh. Giác-mê hai chữ rồi ta chỉ, Chí dốc ngày kia sẽ đạt thành.
H.H. năm Kỷ-Mão.
Ông NGUYỄN-THANH TÂN xướng :
(Ông Nguyễn-Thanh-Tân, tức Hương-lễ Ướng là người ở làng Mỹ-Hội-Đông, thuộc tỉnh Long-Xuyên. Theo lời một người con trai của ông, thì mấy bài dưới đây ông đã làm khi diện kiến Đức Thầy lần thứ nhứt):
Phận hèn cảm tương nghĩa non sông, Hản mặt rồi đây khách cõi Bồng. Cẩm-tú lắng tai người Nhược-thủy, Từ-bi cảm-ứng thứ trung thông.
ĐỨC THẦY đáp họa :
Cảm nghĩa sĩ hiền tưởng núi sông, Thương người đưa đến chốn tiêu Bồng. Cẩm-tú lòng yêu vì quốc thủy, Đợi thời đưa đến ứng trung thông.
H.H. năm Kỷ-Mão.
THANH TÂN hựu tác:
Mảng-mê danh-lợi đạo lu-bù, Nhờ có ơn Thầy dẫn-dắt tu. Mê tỉnh, tỉnh mê, mê phải tỉnh, Bồ-đề say gục phá tam ngu.
ĐỨC THẦY họa:
Dạy chúng chưa xong dạ rối bù, Mấy chục năm trường lạc chữ tu. Sanh-chúng say mê, mê cho tỉnh, Bồ-đề chẳng mến, ấy người ngu.
Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão.
THANH-TÂN vấn gia-đình
Gia-đình kỷ cá hội long đàn, Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang. Phi vụ tiến phong tầm chánh lý, Nho tông vị bác hiệp tôn nhan.
ĐỨC THẦY đáp :
Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn, Hai chữ từ-bi thẩm nghiệp an. Bài trí năng soi chơn giáo-lý, Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan.
H.H. năm Kỷ-Mão.
HIẾU NGHĨA VI TIÊN
Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên, Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền. Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng-nghiệp, Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.
H.H. năm Kỷ-Mão.
(Ông Thanh-Tâm có họa lại bài trên đây, nhưng xin miễn chép).
CÚC CUNG BÁI
(cho ông Hương-lễ Ướng)
Cúc cung, hưng bái, cúc cung hoài, Lui tới nhúng trề, xướng lại dai. Ton tán, ton tờn thêm cóc xẻng, Vỗ bồng vác hất, thấy càng gay
Khuyên thôi mà tiếc vẫn cung hoài, Miến triu hơ-hà thiệt rất dai. Sắp đến khó mong mà cóc xẻng, Thất mùa chẳng rước thật là gay.
Vóc-vạc trung trung béo mập người, Tuổi vừa sồn-sộn quá năm mươi. Bụng to tai điếc ưa nghề lễ, Thi phú thâm trầm chớ dể ngươi.
Khá khen cho đó ý như lời, Chơn-chất hiền hòa ít nói chơi. Nhu sĩ lương từ thêm cảm mến, Nên làm thi phú ghẹo ngưới ơi!
H.H năm Kỷ-Mão.
(Ông Hương-lễ Ướng tức Nguyễn-Thanh-Tân có đáp họa 4 bài thi trên đây, nhưng xin miễn đăng)
BÀI CẦU CƠ
Nguyễn đắc thanh danh tam hữu phân, Đa công hoài luyện thập niên phần. Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá, Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân.
(Bài nầy do một người ở Phú-Lâm, cầu cơ tại trên núi, đem đến Đức Thầy).
ĐỨC THẦY họa:
Nải chí thi âm tất hữu phân, Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần. Vạn ninh hà hải vi vương bá, Viễn vọng thanh tân tảo phi vân.
H.H năm Kỷ-Mão.
NHỨC ĐẦU
Nhức đầu rang óc bởi vì đâu, Nhức mỏi lòng trông dạ hết sầu. Nhức dạ chờ ngày Trời trả phúc, Nhức gân, nhức cốt cả trời Âu.
Nhức đầu bị tiếng nổ đâu đâu, Nhức quyết làm cho chúng thoát sầu. Nhức thống dân sanh gầy hạnh-phúc, Nhức tràng lê-thứ khỏi lo âu.
H.H. năm Kỷ-Mão.
KHUYÊN BỎ DỊ-ĐOAN
Thiện-tín tới đây chớ ngã lòng, Xác trần mê mệt nỗi long-đong. Cậu, cô, chú bác đừng coi bói, Theo lối dị đoan mất bạc đồng. Bạc đồng chẳng dụng, dụng chơn không, Quyết chí nâng-niu giống Lạc-Hồng. Tìm-tõi Đạo mầu trong Phật-Pháp, Cho đời hiễu rõ lý chơn không.
H.H. năm Kỷ-Mão.
(Đức Thầy viết bài nầy vì lúc đó có nhiều người đến nhờ Ngài đoán giùm vận mạng hoặc việc gia-đình)
NGHĨ VIỆC HUYỀN CA
Ngồi buồn nghĩ cạn việc huyền ca, Muốn rứt cho xong bể ái-hà. Phá bức tường mây nhìn vạn vật, Ngặt vì trướng lụa lấp đèn pha. Lôi-thôi quá chậm trong đường thẳng, Trể-nải khó qua nẻo cọp-xà. Một bước leo bờ mà khỏi khổ, Nam nhân chi chí đâu là.
Đâu là ái-quốc với yêu đời, Phổ cứu cho rồi mới thảnh-thơi. Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ, Đất Bắc lòng lang nổi thậm lời. Cố tưởng người trần trần chẳng đoái, Tinh sâu dân sự, sự xa vời. Rồng tiên mở mặt nhìn thi phú, Hiệp mặt tớ thầy sẽ nghỉ-ngơi.
Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời, Một bầu nhiệt huyết chẳng xo lơi. Mến yêu quốc-thủy tình đồng chủng, Phải tính sao xong nổi cuộc đời.
H.H. năm Kỷ-Mão.
(Mấy bài dưới đây do ông Cả Châu ở Tân-Long (Châu-đốc) đem trình với Đức Thầy nói rằng của "ông đô" cho ông):
THIÊN LÝ ca
PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo, NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò. CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa, Núi truông qua đặng rán lần dò. Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít, Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó-o. Tường-tận đã nghe xê cống liếu, Hương thôn bỏ xế xự xang hò. Đoc ngược lại bốn câu chót (tứ nguyệt nghịch độc) Hò xang xự xế bỏ thôn hương, Liếu cống xê nghe đã tận tường. O-o tiếng gà coi nguyệt cảnh, Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn.
Quỉ ma hay phá rối người tu, Đạo-đức chư nhu rán chi hành. Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh, Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh.
Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt, Nghe cho tường giọng bắc hòa nam. Thích-Ca còn phế tước-hàm, Đài cao cửa rộng mà ham tu hành. Hiền đệ Châu muốn nghe lời ngọc, Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu.
(Câu nầy của Đức Thầy thêm. Đoạn sau đây có khúc của ông đò, có khúc của Đức Thầy viết xen kẽ).
Thiên ý không riêng mối đạo mầu, Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu. Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu, Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu.
Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng, Lẽ nhiệm mầu chưa hản trò ôi! Đêm ngày buồn-bã vô hồi, Kìa trên Tiên-cảnh vị-ngôi sẵn dành. Đạo rải khắp năm canh tỏa bút, Dạy tận-tường chẳng chút nào sai. Cổ nhơn tích để phân bày, Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm. Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng, Thả ra khơi cứu dẫn khách trần. Phù-sanh lắm cuộc lao thân, Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau. Trông đợi người tài cao đức trọng, Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao. Chí tâm tường lãm thấp cao, Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu. Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế, Bởi ít ai cải chế đường tà. Sợ e nhiễm trược đọa sa, Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuôn. Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí, Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn. Mảng lo tìm kiếm tước quờn, Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành. Trong buổi khổ mau mau tránh khổ, Rán tầm vào đến chổ an cư. Học câu hỉ-xả đại từ, Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần. Câu bát-chánh rán mài chạm dạ, Tứ mục-điều người khá hành y. Muôn thu thiên định nhứt kỳ, Hạ-nguơn sắc-lịnh khai kỳ Long-hoa. Rán vẹt phá sương mù trước mắt, Chớ để cho quỉ dắt linh hồn. Lão đây vưng lịnh Phật-tôn, Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành. Khá chí tâm học hành kinh sám, Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba. Trở chơn cho kịp Long-Hoa, Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn. Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn, Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây. Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy, Ngày sau phải chịu dọa đày chớ than.
Cuối năm Thìn sẽ lo vẫn chuyển, Xứ "Hà tiên" linh hiển cơ-quan. Nhơn sanh sẽ hiệp một đàng. Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra. Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn, Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông. Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng, Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam. Phật chỉ dạy qui tam lập hội, Dựng cho rồi một cội thành ba. Chớ mong yến thử ẩm hà, Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con. Ta nhắc lại héo von cho trẻ, Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia. Cả kêu lớn nhỏ quày vìa, Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân. Long-Hoa hội ân-cần lo lập, Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn. Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn, Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo. Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc, Đứng sau lưng hình-vóc dảy chưn. Nước kia lửa nọ tưng bừng, Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn tai. Thời cũng tại không ai tu niệm, Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang. Đến nay là buổi tai nàn, Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân. Đến Thân-Dậu Thánh-Thần náo động, Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang. Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn, Nạn tai dồn-dập xóm làn còn chi. Khuyên sanh-chúng rán ghi mối Đạo, Lòng hằng lo ngay thảo nghe con. Tương dưa giữ phận cho tròn, Cuối niên Thân-Dậu mất còn sẽ phân. Trong một giáp ân-cần suy tính, Muốn làm hiền rán nhịn đứng than. Đến nay gần buổi khoa tràng, Minh-quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi. Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ, Hết đao binh qui cổ diệt kim. Gia vô bế hộ im-lìm, Lập thành mồi Đạo rõ điềm xưa kia. Thì dân-chúng danh bia hậu thế, Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành. Diệt tà lập chánh đành-rành, Ba mầu nắm chặt Nam-thành xử phân. Trong tam giáo ân-cần mở Đạo, Trường ngoại bang phục đáo như xưa. Phật Tiên vận chuyển lọc-lừa, Chúng-sanh rán nhớ muối dưa hội nầy. Trên cùng dưới sum vầy một buổi, Dựng mười hai may rủi mới hay. Làm cho rọ mặt râu mày, Thương-nguơn hồi phục là ngày an cư. Cuối Thân Dậu y như Thượng-cổ, Thời nhơn sanh hết khổ đến may. Đế-Vương xuất thế là ngày, Dậu, Thân bình-trị trong ngoài âu ca. Phân chỉ rành gần xa để dạ, Chớ đảo-điên phải đọa phải sa. Nghĩ suy cho thấu mới là, Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi. Khuyên sanh-chúng nhớ lời ta tỏ, Trước cùng sau chỉ rõ mối đàng. Nhơn-sanh giữ phận chớ than, Minh-Vương xuất thế mới an dân lành. Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm, Xin giúp chí bền, chí dục tâm. Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực, Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần.
Từ-bi Trời Phật độ quần sanh, Cứu khỏi tai ương vạn sự lành. Đệ-tử gội nhuần ân đức cả, Chung thân quyết chí dốc làm lành.
Đoạn dưới đây là hoàn toàn của Đức Thầy (chép theo bổn chánh).
Buồn vơi mượn bút tay đề, Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang. Tay chèo miệng nói lang-mang, Chúng-sanh cách trở nghèo nàn hỡi ai. Lục châu ta dạo bằng nay, Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan. Động tình tá quốc an bang, Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh. Bây giờ ta mươn kệ kinh, Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an. Bữa xưa giảng-kệ một nang, Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa. Ngày nay ta cũng nôm-na, Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi. Chừng nào mới đặng thảnh-thơi, Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân. Chim Ô đà dựa cầu Ngân, Người xưa trở gót cho gần người nay. Người nay rồi vẹn thảo ngay, Thì là thấy tạn mặt mày người xưa. Nguyện cầu gắng chí sớm trưa, Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành. Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành, Mau mau trau-trỉa chữ lành cho xong. Đến chừng lập hội mới mong, Trở vể chúa cũ mới hòng xuê-xang. Người hiền như thể cỏ lan, Người hung chết rất chật đàng thảm thay. Cả kêu kìa hỡi là ai, Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau. Lui chơn ra khỏi cho mau, Tìm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan. Theo ta đến chốn Tiêu-bang, Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non. Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ, Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông, Thầy chúng-sanh đắp Phật bán buôn, Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý. Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí, Rán nghĩ suy bền chí mới mầu. Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu, Đặng trở lợi với cha cùng chúa. Nếu chẳng lo cũng như lá úa, Lá úa vàng nó rụng người ôi! Ngàn năm mới có một đời, Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân. Ai muốn gần bệ ngọc các lân, Thì phải rán lập thân nuôi chí. Ta cho đó ít câu hữu lý, Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn. Đục trong đà tỏ nguồn cơn, Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha. Mặc ai biếm nhẻ gần xa, Lòng ta ta biết ai mà mặc ai. Đây khuyên đó đắng cay rán chịu, Mặc người trên bận-bịu chẳng phê. Muốn cho thân vượt khỏi lề, Cắm sào trì chí một bề lo tu. Kim ngọc nan tri tường đông hải, Phật tà phàm tục tất nan tri. Ẩn xác phàm phu gìn Thích-đạo, Mặc tình thế sự chúng khinh-khi. Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo, Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi. Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo, Kim thời bá-tánh gọi ngu-si. Nợ thế đền xong mong giai lão, Hiền thần hiếu nghĩa đáng nên ghi. Lâm sầu mộng ở trong trần thế, Việc tu hành như ế chợ đông. Mãng lo danh lợi não-nồng, Chữ tu để dạ chớ hòng lợt phai. Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng, Sửa tâm lành như miếng hoa thơm. Đến chừng hoa nở nhụy đơm, Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa. Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận, Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây. Kia kia súng nổ trời Tây, Đến năm Thân-Dậu tai đầy sấm vang. Hung-đồ với lũ dọc ngang, Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu. Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ, Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi? Buồn đời xuống bút làm thi, Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân. Nào nào dân có biết ân, Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi. Lời châu ngọc khuyên ai để dạ, Nay gặp người quái lạ tỏ phân. Hãy mau khuya sớm chuyên cần, Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia. Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ, Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa. Phật-nhi tâm tánh thật-thà, Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi? Dương-trần thường bạc như vôi, Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung. Lúc áo-não cội thung lo-liệu, Gắng bền lòng bận-bịu vì ai. Thất-sơn lộ vẽ đài lầu, Chưng ni mới thấy nhiệm mầu của ta. Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí, Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây. Bây giờ nương bóng cờ tây, Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn. Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc, Ta quyến gìn chủng-tộc giang-sơn. Ta khùng mà chẳng có cơn, Cũng không có tánh giận hờn bá gia. Cười rồi khóc thiết-tha liệu-điệu, Vợ xa chồng bận-bịu thê lương. Chẳng cần trà, quả, nồng hương, Miễn cho bá-tánh biêt đường chơn tu. Nghe kệ sám như ru giấc mộng, Lo chê cười hầu họng reo vang. Ỷ mình nhiều của giàu sang, Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa. Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét, Lấy tâm thần xem xét thể nao? Sấm vang thì lộ bảng vàng, Chư nhu thế-giới khắp tràng tới thi. Chữ thi gần chữ sầu-bi, Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi. Chừng đó mới trời ơi đất hỡi, Mang khổ hình vì bởi chẳng tu. Ham vui quyền quí dại ngu, Chữ sang danh vọng như mù đi đêm. Ta nào có nói thêm cho chúng, Quá yêu đời viết túng ít câu. Ít câu mà ý nhiệm sâu, Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan. Đây sắp đến lầm than khắp chốn, Việc tu hành đâu tốn tiền chi. Nầy nầy lời lẽ rán ghi, Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây. Ta mắc lánh tà-tây đa sự, Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni. Ai là đáng bực tu-mi, Thương đời ta mới làm thi khuyên đời. Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến, Nên phải làm kẻ mến người khinh, Người hiền tâm trí thông-minh. Người hung cứ mãi chống kình với ta. Theo học cồ nôm-na ít tiếng, Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm. Chữ nhu ta học âm-thầm, Ai là người tri rán tầm cho ra. Để đến lúc phong-ba biến-chuyển, Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông. Mới là sợ chết ước-mong, Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian. Tiếng đờn hò liếu cống-xang, Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh. Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới, Ta ra đời nên mới đổi thay. Bởi vì lời lẽ thẳng ngay, Cho nên chúng nó ghét bài phú thi. Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ, Kệ khuyên trần nước đổ lá môn. Khắp cùng làng xóm hương thôn, Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu. Dạy đạo-đức người tu rạng lý, Mong cho người hữu chí làm theo. Không làm thì ắt mang eo, Làm xong vượt khổ qua đèo chông-gai.
H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão
Được sửa bởi Administrator ngày November 2nd 2019, 14:00; sửa lần 1. |
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 13:59 | |
| - 1939B:
Những bài sáng-tác năm Kỷ-Mão (1939)
(Phần tiếp theo) LUẬN VIỆC TU HÀNH
Tu hành dương-thế cậy đồng tiền, Phật-Giáo vì tiền phải ngửa-nghiêng. Bát-nhã chẳng đưa người tội ác, Thuyền-từ nào rước lại Tây-Thiên. Trần-gian đầy-dẫy người làm dối, Đạo cả nào trông đến cảnh thiền. Đoái thấy người đời lòng bắt chán, Dương-trần lầm lạc đáng ưu-phiền.
Muốn dặng về Thần với Thánh-Tiên, Kỹ xem cõi thế thấy kia liền. Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền. Phú quí tạo đời thêm mệt xác, Tham danh phế đạo chí đâu yên. Sao bằng cửa Phật vui thanh-tịnh, Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên.
Tiếc vì không đức, tiếc chi tiền, Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên. Bác-ái xả thân tầm đạo chánh, Độ người lao khổ dạ không phiền. Mình vàng Thái-Tử ngôi còn bỏ, Vóc ngọc Đông-cung tước phế liền. Xem đó hỡi người mau lập chí, Tu hành khá nhớ giữ cho nguyên.
Muốn đặng thành Thần với Phật Tiên, Rán tu ân đức chớ tu tiền. Lợi danh chớp nháng như luồng gió, Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền. Sớm thức tỉnh tâm tầm đạo chánh, Sau nầy về Phật với ngôi Tiên. Lập thân giúp thế nên cộng-quả, Muôn kiếp danh hiền sách vẫn biên.
H.H. năm Kỷ-Mão
TAM HÙNG TRỔ MẠT
Tam hùng trổ mặt ngỏ chào đời, Từ mẫu bé nhi cũng thảnh-thơi. Nam-việt xuất thần ơn trên trước, Đó là việc nước với việc trời.
H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão
(Bài nầy viết trong khi người ta đồn bà Sáu ở núi Tượng sanh 3 người con : một mặt xanh, một mặt đỏ, một mặt trắng).
LỤY TAM CHÂU
Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa, Thập bát chư bang động can qua. Dương-gian mãnh thú trừ tàn-ác, Lê-thứ hẫu lai khổ thiết-tha. Tần bang hậu hận tiên diêu-động, Nam-quốc lương dân kiến linh-xa. Phồn hoa đô hội lưu giang huyến, Dư đảng dọc ngang cấp ma-ha.
H.H. tháng 8 năm Kỷ-Mão
VẾN MÀN BÍ MẬT
Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên, Chư bang điềm tĩnh sỉ danh hiền. Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc, Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên. Đởm lực hà quê trung trực thử, Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên. Sơn ly Phật-cảnh hồi Nam-việt, Diện khổ sanh kỳ vị trưởng miên.
BỬU-ngọc trường quan ẩn tích kỳ, SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi. KỲ-thâm tá giả thi thành thủy, HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi. NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử, NON lịch đài mây rạng tu mi. BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ, NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi.
Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang, Ngô giả tùng nhung khí đởm gian. Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký, Lương thứ dương-trần đạo dĩ an.
Đào nguyên di khả tứ hồ-văn, Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng. Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất, Vận thới thô trình trực bỉnh thăng.
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
THẦY BA ĐẠO ở H.H hỏi thuốc
Nghe tiếng ơn trên dốc cứu đời, Dám xin khép nép ngỏ đôi lời. Nhơn dân sắp đến vương bịnh khổ, Tiên dược phương nào được thảnh-thơi.
ĐỨC THẦY đáp họa
Mượn xác ra cơ dốc dẫn đời, Bày tỏ cùng ai ngỏ mấy lời. Lục châu xao-xiếng nhơn dân khổ, Phật-Giáo khẩn cầu đặng thảnh-thơi.
THẦY BA ĐẠO hỏi
Thảnh-thơi dầu đặng phước trời, Đau ốm qua rồi trẻ ăn chơi. Cho thuốc chỉ đường nhờ phương-phép, Ngàn năm ơn đức nguyện y lời.
ĐỨC THẦY đáp họa
Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời, Muốn khỏi hội nầy trẻ ăn chơi. Lục tự trì tâm là phương-phép, Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời.
THẦY BA ĐẠO hỏi
Y lời dám hỏi lén một câu, Tiên-Phật rộng xa rất nhiệm mầu. Đạo đời bốn chữ đây là gốc, Tà chánh xin nhờ tiếng ngọc-châu.
ĐỨC THẦY đáp
Trả lời ý-kiến đó một câu, Ẩn xác phàm phu chửa nhiệm-mầu. Đạo đời mầy chữ đây là gốc, Tà chánh tâm trì rõ ngọc châu.
Muốn đó gần đây giải mộng sầu, Bốn chữ xuống phàm chớ ở đâu. Khuyến-khích cùng ai mau tỉnh ngộ, Lai vãng gần ta rõ Đạo mầu.
Văn-sĩ nhắn-nhen có mấy lời, Đó muốn tỏ tình có mấy hơi. Ra ngõ lên xe chừng một lát (1), Sáng ngày tiếp kiến chuyện trò chơi.
H.H., năm Kỷ-Mão
(1)Đức Thầy mời thầy ba Đạo sang chơi vì thầy ấy ở nhà và 3 bài thi gởi Đức Thầy là do một em học trò đem đến.
BÁT NHẪN
Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền, Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên. Nhẫn giả hương lân hòa ý hỉ, Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên. Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc, Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền. Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự, Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.
H.H. năm Kỷ-Mão
Cho Ông HƯƠNG-CHỦ BÓ ở Hòa-Hảo
Tâm hành từ thiện vị an nhiên, Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền. Huỳnh long lộ vĩ năng kỳ diệu, Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên. Danh-Sơn khai bút dìu sanh-chúng, Trung-Trực phò nguy đãi lịnh thiên. Tạo xác phù vân khai nhứt điểm, Qui hồi tự lập diệt tiền khiện.
Kỷ-Mão hạ san mượn xác trần, Cảm tình đồng loại lão khuyên dân. Thậm-thâm đây đó niềm liên ái, Hợp-tác cùng nhau nối bút thần.
Vi lộ thiên oai bảo giác dân, Ngọc nam ẩn-sĩ dị-thường nhân. Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định, Tứ hải hòa giai tất hữu phân.
Muốn thấy người xưa phải vẹn mày, Nam-nhân hữu chí kiến Bồng-lai. Nhìn xem hiệu lão trong thơ ấy, Tứ cú nho gia đã cạn bày.
H.H. lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
SAY
Say mùi tục lụy vẫn lao-đao, Say nỗi kẻ ngu rất hỗn-hào. Say thấm đạo lành ban vạn vật, Say đời chưa rõ chuyện vàng thau.
Say ngọc bồ-đề đức hạnh cao, Say dân ngu muộn tưởng điên nào. Say chừng nó biết ta Tiên-trưởng, Say chén quỳnh-tương chốn núi cao.
Say thời vận bĩ vẫn còn xa, Say chuyện trần gian lắm cáo-xà. Say lấy gậy thiền toan dẹp hết, Say chờ Thiên-lịnh phán cho ta.
Say đạo huyền-vi nước tịnh-dương, Say câu Bồ-Tát rưới cho thường. Say mê Tiên-cảnh ôi thanh-nhã, Say việc trần-gian lám họa-ương.
Say-sưa chuyện chổ nhắc chừng đời, Say nói với trần việc tả-tơi. Say biểu tri tâm đừng vội-vã, Say buồn lũ chó sủa mùi dơi.
Say của Thần-Tiên rứt cuộc đời, Say câu diệu lý hỡi người ơi! Say như Lưu-Khánh ai thèm chịu, Say thể Trần-Đoàn mới thảnh thơi.
Say mãi say hoài say vẫn say, Say cho bá-tánh tập xong bài. Say như Nhơn-Quí thì mang họa, Say của lão Khùng ách nạn bay.
Say cho tiêu hết giống con buôn, Say của Thánh-Nhơn xuất lập tuồng. Say tạo một nền qui vạn vật, Say dìu trăm họ vượt mây truông (1)
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão (1) Ông Nguyễn Thanh-Tân có họa tám bài thơ trên đây, nhưng xin miễn in vào tập này.
Cho SUNG-BIỆN T ở Hòa-Hảo
Quan trường nhiều lũ sói tà, Miệng là mãnh hổ ý là sài lang. Vinh-quang đâu có vinh-quang, Tâm còn ích-kỷ tánh còn hại dân, Có thân chẳng liệu lấy thân, Cười người điên dại sao gần Tiên bang. Nực cười cho đứa võ-phu, Đui mù chẳng sợ cứ mà gièm pha. Sau nầy sẽ biết mặt ta, Tiên, Thần cũng chịu quỉ tà cũng cam. Dương-trần lắm nỗi đớn-đau, Tu hành chẳng chịu, đạo mầu chẳng theo. Cứ lo ngửa mặt cười reo, Trước cười sau khóc khóc rồi lại than. Than rằng: tà quỉ ác-gian, Chẳng cho bá-tánh được toàn thây thi. Mấy năm trí óc còn ghi, Lời Thầy để lại có thì sai không.
Hòa Hảo, tháng 7 năm Kỷ-Mão
Thơ của "Ông BÁN CHIẾU"
Đại-Thánh là Phật Thích-Ca, Người còn khinh-báng huống ta phàm trần. Vàng thiệt lại nói vàng râm, Lúc này vận thới đá mài cũng an. Cơn buồn phải gượng làm càn, Cuộc đời rổn-rổn Phật mà phải kiêng. Trên đời ai tốt bằng sen, Quan yêu dân chuộng rã bèn sạch trơn. Bề ngoài coi thể cây sơn, Xét trong mồi mọt ăn mà chẳng hay. Mặt tiền xem lại tốt thay, Hiện hậu ngó kỹ lạnh tanh không ngờ, Mau mau ta hãy bắt bờ, Đặng cho bá-tánh leo bờ nầy qua. Có xạ nào phải bán xa, Giấu trong chỗ kín cũng thơm đầy nhà. Nam-mô sáu chữ Di-Đà, Từ-bi tế-độ vậy mà chúng-sanh. Xưa nay sáu chữ lạnh-tanh, Kim-Sơn Phật ấy gián sanh đành-rành. Ngưỡng cầu Thượng-Đẳng Đai Thần, Phải ra trị nước bảo toàn lê dân. Ở nhà tụng niệm đều xinh, Lục châu bát loạn nỡ nào ngó ngang. Bán lộ gian-hồ kính tặng Kim-Sơn Phật (1)
Năm Kỷ-Mão
(1) LỜI SOẠN GIẢ : Bài thơ nầy không phải của Đức Thầy, mà chính là của một Dị nhơn (đang đi bán chiếu ? ) viết và trao cho một người tín-đồ Hòa-Hảo tại Kiến-An (Chợ mới, thuộc tỉnh Long Xuyên) đem đến cho Đức Thầy. Theo lời người tín-đồ nầy nói lại thì trong lúc giữa đường, ông bán chiếu không có đem sẵn viết mực theo; thế mà chăng biết tại sao không đầy một phút, ông viết được một bức thơ tuồng chữ sắc-sảo, giống hình chữ nôm, mà không một nho sĩ nào đọc được. Liền đó, Đức Thầy đọc cho anh em có mặt trong lúc ấy nghe.
HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH
BỬU châu công luyện chốn non thần, SƠN thủy môn giang bảo giác dân. KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định, HƯƠNG nogn dành thưởng kẻ tròn ân.
Từ-bi hai chữ sắc nâu sồng, Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công. Vận bĩ xa chờ câu thạnh-thới, Buồn ai châm-chích chữ cay nồng.
Hòa Hảo năm Kỷ-Mão
Hỏi HỘI LONG-HOA
Long-Hoa hội ấy còn xa, Rán mà tu niệm đặng nhờ thân sau. Phải chi hội ấy hầu gần, Thi Ông hà tất xuống trần làm chi ? (1)
H.H. cuối năm Kỷ-Mão
(1) Có một bà già 80 tuổi xin Đức Thầy cho biết coi bà có thể sồng để coi hội Long-Hoa chăng ? Đức Thầy bèn đáp lại bằng mấy câu trên đây.
KHUYÊN BỚT CHO VAY
Một cuộc phù vân có mấy hơi, Cầu xin bá-tánh nhậm đôi lời. Cho vay mắt-mỏ từ nay bớt, Có hỏi nới tay để giúp đời. Nạn khổ đâu đâu đều túng rối, Tai ương chốn chốn khắp cùng nơi. Tiền ma gạo quỉ đừng nên trữ, Sau cũng tiêu theo luật của trời.
H.H. năm Kỷ-Mão
Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN tức chín Diệm xướng (1)
Ngàn dậm nghe ông có phép tiên, Cúi xin lời hỏi chớ ưu phiền. Thanh manh đôi mắt đường không thấy, Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền.
Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa, Ơn ấy bằng non dạ có thừa. Lượng rộng xin ông đừng có chấp, Ngàn vàng dám đổi một lời ừa.
ĐỨC THẦY đáp
Chí đại còn xa chửa phép tiên, Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền. Nhà tôi cũng có bà không thấy, Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền.
Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa, Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa. Triu-mến tâm thành đâu có chấp, Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa.
Di-Đà lục tự ấy phương-châm, Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm. Khẩn vái trì tâm người thượng-cổ, May trời phò hộ phước cho thầm.
Khuyên đó lòng son chớ vội buồn, Hữu thành Phật độ ắt qua truông. Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một, Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
(1) Ông Nguyễn-kỳ-Trân là người làng Định-Yên, thuộc tỉnh Long-Xuyên, hai mắt không thấy nên đến nhờ Đức Thầy chữa giùm.
CHẲNG RA HƠI
(Ông Nguyễn-kỳ-Trân ao-ước Đức Thầy giảng-giải về Đạo-đức cho ông nghe, nhưng vì lúc đó có người của sở Mật-Thám đến dò xét nên Đức Thầy chỉ làm bài thi dưới đây):
Định-Yên cụ lão mới sang chơi, Tâm bịnh bất an khó cạn lời. Ông chớ nãn lòng chờ lúc khác, Bây giờ mở miệng chẳng ra hơi.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
KHAN TIẾNG
Lúc nầy khan tiếng sự sầu riêng, Mở giọng thì nhân gợi nỗi phiền. Hơi-hám xác trần ngâm chẳng nổi, Mực tàu đã cãn ráo ngòi nghiên.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Tặng Ông GIÁO XOÀI (tức Soài, tức Mạnh-xuân-Quả, lúc ấy dạy học tại làng Phú-An, thuộc tỉnh Châu-Đốc)
Giáo tập hôm nay thấy mặt thầy, Vóc hình mập-mạp học khoa tây. Sớm chiều luyện tập dìu em trẻ, Ạ, ẹ, a, b đủ một bầy.
Một bầy em trẻ muốn theo tây, Văn pháp, văn nam cũng đủ đầy. Thương thảm tấm tình hay nóng-nảy, Bởi vì chẳng rảnh đặng vui say.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Tặng Ông GIÁO ĐÀNG
(Lúc ấy ông nầy đang dạy hoc tại làng Phú-Lâm, tỉnh Châu-Đốc)
Tâm tánh ngày nay muốn việc lành, Tu hiền miệng lưỡi muốn lanh lanh. Tranh đua xác thịt vừa nghe chớ, Cố chí ngày kia sẽ đạt thành.
Đạt thành mới hiểu Đạo cao thanh, Trần-thế lánh xa phải học rành. Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ, Nhân ngã, sân si hãy dẹp đành.
H.H., cuối năm Kỷ-Mão
THI XUÂN
Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng, Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung. Áo quần lòe-loẹt đi cùng xóm, Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc cung.
Chúc mừng năm mới, mới buổi qua, Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà. Tre nêu phơ-phất không còn thấy, Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba.
Kỷ-mão năm nay đã hết rồi, Tâm thần hoài tưởng chuyện xa-xôi. Đạo mầu Nam địa càng thâm-diệu, Dẫn dắt nhơn-sanh cũng chửa rồi.
Bước qua năm mới, mới mừng à, Khuyến-khích dân tầm đạo Thích-Ca. Tự giác, giác tha ta phải nói, Hỡi người dương-thế bớt xa-hoa.
Xa-hoa năm mới, mới khổ à, Dân chớ chần-chờ chớ bỏ qua. Dạo-lý xem tường âu mới hãn, Rán tìm cặn-kẻ nỗi ma-ha.
Năm Thìn bước tới thiệt là rồng, Nanh gút vẫy-vùng nỗi long-đong. Chiến-tranh thảm-khốc toàn lê-thứ, Lo nỗi đói đau giống Lạc-Hồng.
Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi! Thế-giới đao binh ruột rã-rời. Khốn nguy đa sự chào xuân mới, Dân-chúng hoàn cầu khó thảnh-thơi.
Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh-Long, Dụng lối Bá-Nha réo Lạc-Hồng. Chạnh cám cha còn con chẳng biết, Phải nhờ đạo-đức mới tường thông.
Phần ta thương chúng luống âu sầu, Dân sự nào tường nẻo cao sâu. Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối, Nhưng vì bổn-phận phải toan âu.
Con người Nguơn-hạ mấy nhiêu hơi. Đạo-đức nhiệm mầu chẳng có chơi. Lê-la chậm bước đàng bụi gió, Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời.
Mãnh hồ đâu đua chí tanh-bồng, Rạng mày nởi mặt với non sông. Quân-tử thánh-nhơn ghi Nhược-hủy, Cơn buồn chấp bút chuyển huyền thông.
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
CÁM CẢNH DÂN NGHÈO
Tết tết cùng năm tháng hết mà, Thằng bần công nợ chạy bôn-ba. Hên mai hẹn mốt chờ khai hạ, Con đòi áo tốt rối chàng ta.
Năm nay ăn tết thật là nghèo, Sanh-chúng u-buồn nỗi nạn eo. Đồng khô lúa ngập coi xơ-xác, Cảnh đói buông lung nỗi giạt bèo.
Nhắn-nhủ khắp nơi hỏi một bài, Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai? Rượu-trà, cờ-bạc, ôi phung-phí, Chẳng biết lệ xưa của ai bày?
Tết rồi tết nữa, tết liền tay, Năm cuối mỗi năm cũng tết hoài. Làm cho dân-sự vui nha-nhớp, Chơi giỡi ba ngày rước xuân lai.
Lòng ta cảm thấy nỗi u-buồn, Suy xét việc đời lụy muốn tuôn. Chào xuân chẳng thấy xuân mừng nói, Mê-mệt tâm can trí bắt xuồng.
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão
HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP
Bước tới hùng ca bước tới hoài, Đạo đời hủy báng mặc tình ai. Cố chí nhiệm-mầu truyền diệu-pháp, Bời vì cốt-nhục cũng hoài thai.
Diệu-vợi xa-xăm nỗi khổ hoài, Cuộc đời lao-khổ thấy chiều mai. Chợt ngó xuân sang xuân biết khóc, Đến thời Thiên định lối bi ai.
Giục-thúc nhơn-sanh kiếm Đạo mầu, Sao còn hoài tưỡng chuyện đâu đâu? Sự sống người đời, ôi! thấy khổ, Miệt-mài Đạo-đức vẻ huyền sâu.
Hùng xa chuyển pháp kiếm tôi hiền, Thiên-địa tuần huờn chẳng vị riêng. Gian nịnh phản thần, ôi! nhơ-nhuốc, Gìn lòng trung hiếu sách ghi biên.
Ghi biên những kẻ quá lương hiền, Một mực trung thành với Phật-Tiên. Cố tưởng ước-mơ về Tiên cảnh, Hiếu hạnh gìn lòng chí ư thiên.
Ư thiên Trời Phật chẳng dụng tiền, Tìm kiếm con lành giải nghiệp-duyên. Mê-muội ác-hung về địa-ngục, Hiền lành nhắm mắt thấy non Tiên.
Non Tiên ra sức tháo dây xiềng, Dân-chúng an nhàn dạ mới yên. Cám cảnh thương đời, ôi! mê-muội, Mong-ước ngày kia giải mộng phiền.
Mộng phiền muốn khỏi phải làm sao? Hung dữ, ác nhơn chớ bước vào. Gìn tâm nhu-nhược chờ vận đến, Vậy mới rời xa cảnh máu đào.
Nhảy đùng ắt phải lọt ngoài sâu, Chẳng gặp xuồng ghe chững mới rầu. Làm sao lo liệu tu cho kịp, Bập-bẹ nam-mô cũng nhọc cầu.
Nhọc cầu bịnh tật nổi nào đâu, Lao-khổ nhơn-sanh cảnh nước Tàu. Trẻ nhỏ rã-rời xa bố mẹ, Sao còn tranh-đoạt mảng mồi câu.
Mồi câu danh-lợi chúng dân rầu, Kim chỉ phải gìn chuyện cạn sâu. Vinh-hoa phú-quí chòm mây bạc, Nho-nhã thi-văn nẻo nhiệm-mầu.
Nhiệm-mầu hạnh-đức quá thanh-cao, Thần, Thánh, Phật, Tiên xuống kêu gào. Dương-gian mau tỉnh trong tràng mộng, Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao.
Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta, Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà. Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ, Chờ thời Thiên định thiết hùng ca.
KIM ngọc nào tri Phật, Quỉ, tà. SƠN đài ra sức dẹp loài ma. THƯỢNG thọ chúc cầu an bốn biển, ĐẲNG đẳng dưới trên sớm thuận-hòa.
Mong ước ngày kia đặng khải hoàn, Địa cầu sanh-chúng được nhàn an. Bốn biển một nhà Cha: Phật, Thánh, Thì là dân sự hết tàn ngang.
Năm tàn tháng cuối cảnh buồn teo, Đón rước hạn xuân lễ quá nghèo. Thượng cổ gần hồi nên sửa lối, Theo nhà Phật-Giáo phải như keo.
Dân-chúng chớ nên đốt giấy tiền, Bời vì Diêm-chúa chẳng tình riêng. Phán-quan tả hữu không dùng hối, Nên phải dạy dân bỏ giấy tiền.
Vàng bạc bởi tay khách trú làm, Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham. Giấy quần giấy áo không nên đốt, Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm.
Hòa-Hảo, ngày 29 tháng chạp Kỷ-Mão (Chép theo bản chánh dao Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
ĐÊM BA MƯƠI
Đêm nay mới cũ hiệp hai dàng, Xuân nhựt lễ nầy tại thế-gian. Mèo rồng cao thấp chơi cùng giỡn, Đông hạ xuân sang khắp địa hoàng.
Bóng trăng vằng mặt, tối tối hoài, Hai giờ hiệp mặt, hai giờ hai. Một đêm mới cũ cùng nhau gặp, Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Một bài từ cũ mới ngày mai, Tiếng pháo xa xa vẫn đốt hoài. Dân ta nghèo túng về Đạo-đức, Chơi giỡn đua-bơi mãi tối ngày.
Một lúc lâu lâu một tiếng đùng, Đúng giờ cũng rước ông bà chung. Từ-bi hai chữ ta ngồi tưởng, Không có xu mua đốt miệng hùn.
Hòa-Hảo, đêm 30-12 Kỷ-Mão
-- Hết những bài sáng tác năm Kỷ-Mão --
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:01 | |
| - 1940A:
Những bài sáng-tác năm Canh-Thìn (1940)
CỜ TAM SẮC
Tam sắc cờ bay phất-phới mà, Ngồi nhìn nhớ kỹ héo lòng ta. Thuở xưa đâu có cờ tam sắc, Gặp cảnh vong bang úa ruột-rà. Lúc Đức Thầy ở nhà thương Chợ-Quán, Ngài có gởi về Hòa-Hảo bài dưới đây và dặn bôi bỏ bài trên. Anh em bổn-đạo lúc đó cũng chưa hiểu vì sao Đức Thầy bảo sửa. Bỗng một bữa nọ, Cai-Tổng Pho đến nhà Đức Ông đem vấn-đề thi-văn của Đức Thầy ra nói chuyện, có ý muốn làm khó dễ Đức Ông về bài thi "Cờ tam sắc" nói trên. Liền đó, Đức Ông bảo ông Hương-quản Diệp (ngẫu nhiên có mặt trong lúc đó) đọc bài dưới đây. Nghe xong, Cai-Tổng Pho vỗ tay nói : "Vậy mà người ta nói lại khác chớ !" Tam sắc cờ bay phất-phới mà, Ngồi nhìn khoăn-khoái cõi lòng ta. Thuở xưa đâu có cờ tam sắc, Gặp cảnh Tây Đông thể ruột-rà! Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940) (Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ) ĐẦU NĂM
Đầu năm tục lệ gọi ngày mùng, Tiếng pháo đốt hoài cũng thấy chung. Xóm trên xóm dưới cùng nhau đốt, Khúc giữa phần ta mãi nghe hùn. Nghe hùn lỗ nhĩ cũng lùng-tung, Ngày một tiếp xuân mới vô cùng. Mèo lui rồng tới bay vơ-vẩn, Thế-giới chiến-tranh nổ khắp bùng. Mồng một năm nay rõ thiệt Thìn, Hẹn cùng non nước vẫn đinh-ninh. Cố chì tấm lòng gìn đạo-đức, Mặc tình bá tánh chẳng thèm tin. Nam-hải Quan-Âm lấy tịnh bình, Cầm nhành dương-liễu rảy tà tinh. Quyết lòng độ tận trong sanh-chúng, Ai ghét ai ưa cũng mặc tình. Xuân sang ảm-đạm ánh dương mờ, Thệ quyết một lòng chẳng bỏ ngơ. Có sông có núi cùng cây cỏ, Độ tận chúng-sanh khỏi dại khờ. Lòng ta gặp cảnh rối tơ vò, Gan ruột phổi phèo một bộng to. Lo hoài lo mãi không sao xiết, Tiên cảnh chúa tôi vẫn hẹn-hò. Hò hẹn Phật-Tiên hiệp một ngày, Một ngày thế-giới khỏi bi-ai. Trung-Ương tam cõi đều hòa mặt, Ta mới thảnh-thơi trở gót hài. Gót hài muốn trở phải làm sao? Đạo-đức thâm sâu hãy bước vào. Sớm chiều lo liệu rèn tâm trí, Niệm tưởng Phật Trời thỏa ươc-ao. Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940) (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ) ĐỐT PHÁO XUÂN
Lẹt-đẹt rồi đây lẹt-đẹt bùng, Đùng-đùng lẹt-đẹt nổ lùng-tung. Lùng-tung lúng-túng dân ta túng, Ngao-ngán cho xuân lão bắt khùng. Đoái thấy xa xa một cái đèn, Ngoài đường trời tối thiệt len-nhen. Tiết xuân buồn-bã vì ngập lúa, Nên phải ăn chơi cách quá hèn. Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940) (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ) TỐI MỒNG MỘT
Nhuần gội ơn trên rải Đạo mầu, Thương đời chỉ-vẽ nẻo cao sâu. Khai rừng kinh kệ câu huyền-bí, Để cứu nhơn-sanh khỏi thảm-sầu. Hương đăng nghi-ngút lễ vọng cầu, (1) Cám lòng bá-tánh nguyện từ câu. Chí quyết một lời ta độ tận, Dắt chúng lánh xa cảnh mộng sầu. (1) Đêm ấy ông Hương-Kiềm Chương và anh em ở Hưng-Nhơn (Châu- Đốc) đến dưng bông lễ Phật. Giữ nguyện đinh-ninh tiếng tạc thù, Làm lành đâu phải tốn tiền xu. Mà sau lại được về Tiên cảnh, Thêm thoát ngục mê chốn Diêm-phù. Diêm-phù chơn Chúa chọn người tu, Hành phạt ác-hung chốn cửa tù. Tiếp nghinh những kẻ lòng nhơn-đức, Hỡi bờ dương-trần hãy rán tu. Rán tu vẹt phá đạo lu-bù, Thấy chúng đời nầy lạc chữ tu. Sớm tỉnh kệ kinh tìm hiểu lý, Một ngày hội hiệp hết mờ lu. Mờ lu được sáng rắn hóa cù, Hiệp mặt phân trần nỗi ám-u. Tớ Thầy tôi chúa cùng nhau gặp, Khắp hết thế-gian thoát chốn tù. Chốn tù vốn thiệt cõi ta-bà, Tiên cảnh được về mới lánh xa. Chúng-sanh chìm đắm trong vòng khổ. Khuyến dạy bởi vưng sắc Ngọc-tòa. Ngọc-tòa Phật-Tổ nấy sai ta, Xuống cứu thế-gian nẻo vạy tà. Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu-pháp, Cho đời thấu tỏ Đạo ma-ha. Ma-ha thoàn nhỏ dọn rồi đa, Bước xuống đi qua bến giác mà. Sao hỡi còn chờ ta réo mãi? Dân tình xem giảng cứ ngâm-nga. Ngâm-nga việc khổ tới bên a, Bổn phận tu hiền phải lánh xa. Biết Đạo tùy thời mau tránh khổ, Chớ đừng thi-thố những tài ba. Tài ba khoe sức uổng thây mà! Nhựt dạ yêu đời dụng khuyến ca. Tỉnh thức nhơn dân đang mờ ám, Nên làm thi phú đặng ngâm-nga. Ngâm-nga hiểu nghĩa đáng kim ngà, Huyền-bí nhiều lời chỉ thiệt xa. Bổn-đạo rán tìm cho cặn-kẽ, Lòng hiền Phật độ khỏi tinh-ma. Hòa-Hảo, đêm mồng 1 tháng giêng Canh-Thìn (Ông Nguyễn-thanh-Tân có họa mấy chục bài thi xuân trên đây nhưng xin miễn đăng) (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ) Thầy giáo XOÀI (tức SOÀI tức MẠNH-XUÂN-QUẢ) xướng: Đạo-đức bao nhiêu dám gọi Thần, Bia danh mô-phạm để lừa dân. Trời Âu tấn hóa nhờ khoa-học, Đất Á suy đồi tại biếng thân. Nhồi sọ nhơn-sanh kêu thức tỉnh, Mê hồn bá tánh gọi người ân. Dạy đời mở Đạo mình coi dở, Sánh lại khác xa Việt với Tần. ĐỨC THẦY đáp họa:
Ngu muội Khùng Điên chẳng thuyết Thần, Đôi lời cuồng-sĩ gọi lòng dân. Văn-minh lợi dụng nhờ hay học, Giỏi chữ lòe đời để lập thân. Ham sướng dương-trần ôi! khó tỉnh, Ưa vui dân sự chẳng thi ân. Ỷ mình chê chúng rằng hay dở, Ganh-ghét hiền như thứ ác Tần. Thầy giáo XOÀI xướng:
Biết ai là Thánh biết ai Thần, Học hỏi thầy mô dám dạy dân. Khuyên-nhủ thiện nam nên để tóc, Vỗ-về tín nữ lại tu thân. Niết-bàn dành để người phàm tục, Trần-thế màng chi cuộc ái ân. Muốn dắt đồng bào qua bể khổ, Đạo mầu xin luyện mấy non Tần. ĐỨC THẦY đáp họa:
Đâu màng bá tánh gọi danh Thần, Tự giác huyền cơ để giáo dân. Bắt chước ông cha ta để tóc, Noi theo tổ phụ đặng gìn thân. Lòng yêu chi sá lời thô tục, Dạ ái nào thèm chúng đáp ân. Hồng-Lạc chỉ đường qua cảnh khổ, Kìa ai chớ tập tánh dân Tần. Thầy giáo XOÀI xướng:
Mê-tín dị-đoan mới tặng Thần, Noi gương hiền-triết lại chăn dân. Sám kinh lấy nể răn truyền giáo, Giảng dạy là mưu để ấm thân. Khai sáng đứa mù đời trách oán, Làm ngu kẻ trí gọi là ân. Ông ôi! nay đã bao nhiêu tuổi? Sao chẳng có lo cuộc Tấn Tần? ĐỨC THẦY đáp họa:
Lọc lẽ tà tâm ấy gọi Thần, Trượng phu người phải biết thương dân. Nồi cơm thiếu bữa tranh nghề giáo, Trách cá hụt dùng đoạt mối thân. Ở phải giúp giùm sao nói oán? Ôi thôi, làm mướn chớ rằng ân. Đạo đời chẳng luận người cao tuổi, Xin miễn cho ta cuộc Tấn Tần. Chẳng phải lòng ta muốn họa thơ, Ví như văn-sĩ đáp lời ngờ. Đạo mầu giữ phận không cao thấp, Ai đọc qua rồi phải bỏ lơ. Thi phú dầu cho thấu đến tai, Cũng đứng giận-giũi mới là hay. Bóp lòng chìu ý nên lời trả, (1) Tôn-chỉ người tu sái việc bài. (1) Đức Thầy không muốn trả lời ba bài thi của thầy giáo Xoài, nhưng vì ông giáo Long, người đưa thơ, cố nài-nỉ mãi nên bất đắc dĩ Ngài mới chịu đáp họa. Tôi làm như thế khác lời tu, Giả dạng nhà nho muốn trả thù. Người xỏ tới mình mình đáp lại, Chớ tình chẳng chịu viết thi ru. Hòa-Hảo, Tết năm Canh-Thìn Ông HUỲNH HIỆP-HÒA (Làng Bình-Thủy, tỉnh Long-Xuyên) xướng: Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm, Phạn ngữ truyền lai tối thậm thâm. Phanh luyện ô kim mong điểm đạo, Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm. Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển, Phật Lão hư không bí khuyết thầm. Thị nhị giáo-sư đoàn thuyết-pháp, Tảo tương thích điển chúng-sanh tầm. ĐỨC THẦY họa:
Mã hồi nhơn diện ngã kim châm, Pháp-giáo phạn-văn bát diệu thâm. Lam thất thanh chơn hà khuyết Đạo, Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm. Môn-gia khảo sát lai duy hiển, Vị-khí nan thông ký cảm thầm. Ngã thị vô biên nhiên lập pháp, Hòa giai Nam-đỉnh tác thi tầm. Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Chúng-sanh tầm đắc đạo nan minh, Bửu-bối trừng tâm thể dụng tinh. Cầm-kiếm đảnh lư an trí thủ, Càn khôn nhựt nguyệt vị đồng linh. Siêu phàm ôn dưỡng âm-dương số, Nhập thánh đề khai thế-tục tình. Thái-Thượng, Thích Xa luân kiếp giáo, Đơn song đồ-đệ cổ kim minh. ĐỨC THẦY họa:
Chúng-sanh khố diệt diện nan minh, Ly cấu từ-bi cái thế tinh. Nhan-Thước duyên-do tam diễn thủ, Can trừ danh-vi nã kỳ linh. Ngộ thâm nan liễu âm-dương số, Xác tục trần gian cố dục tình. Tho phỉ nam lương toàn khuyến-giáo, Tam tồn ngôn xuất biện kim minh. Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Hội trung bửu-cái cổ-kim truyền, Tri giác hư linh kế lập thiên. Siển, triệt phân minh Châu-Võ kỷ, Âm, dương chuyển luyện Hớn-thê tiên. Lôi-Âm kinh-ký khai đàn việt, Sơn-Thứu từ tăng phản bổn nguyên. Gia bác na thời di phổ hóa, Huyền-cơ như thử kiếp trần yên. ĐỨC THẦY họa:
Bửu gia nan hối thế-gian truyền, Tam thế hư không tế kiệm thiên. Nhơn ngã hạ-nguơn phân bất kỷ. Qui hồi thượng-cổ bút thê tiên. Chất âm, thinh, sắc phi tiêu-diệt, Bài phỏng liêm-gia bế hộ nguyên. Lập chí hiền-nhu đương kế hóa, Thi thần ký chú định hòa yên. Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Ngọc quang cảnh nội chủ càn-khôn, Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn. Âu-Á chiến tranh thùy thắng lợi? Kim lê uổng-tử sắc hà môn? Hà môn giáp tý giáng lâm trần, Đào-tạo lương-tâm khổ não dân. Xuất hiện mạng chơn phi quyết chiến, Cấu ai trị địa hội quân thần. ĐỨC THẦY họa:
Thành tha ngũ nội nã càn-khôn, Cái thế vô linh mạng thích tôn. U lịch bá trừ nô bính lợi, Tiền đồ lê dị đắc giang môn. Tam thiên lục bá giáng lâm trần, Khóc tử lang tâm biến họa dân. Tà quái hạ nguơn khai ác-chiến, Ất niên bình thự kiến quân-thần. Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương, Khẩu tụng Văn-Vương vị bốc tường. Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị, Hành nhơn tịch tịch muội tậm lương. Mã lai thủ thị danh thương pháp, Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường. (1) Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu, Tứ minh tam vị hiển căn-chương. (1) Nếu chiết tự 6 câu của đầu bài nầy thì chúng ta thấy mấy chữ sau đây: Trạng Trình, Cữ Đa, Đề Thám, Ông Huỳnh Hiệp-Hòa muốn hỏi coi Đức Thầy có phải là một trong 3 ông đã kể trên dây chăng? ĐỨC THẦY họa:
Hồi đầu điểm Đạo chuyển phong cương, Háo thắng bi ly đạo khổ tường. Tề tướng Cam phong an diện nhị, Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương. Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp, Phật-lý di khai đại-hội trường. Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu, Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương. Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn Ông HUỲNH TRUNG-HÒA (thầy ba Tươi ở làng Kiến-An, Long Xuyên) xướng: Lưng chưng khó hiểu khách trần-gian, Sớm mặn chiều chay lắm nhộn-nhàng. Đặc đất phấn tình tô láng mép, Cả trời lửa chướng đốt nồng gan. Khéo đam điệu hạnh trêu màu Phật, Đành để xương da nhuộm máu phàm. Riêng tưởng trồng gieo rừng bác-ái, Những mong trông ngóng đến Thiên-đàng. ĐỨC THẦY đáp họa:
Từ rày đặng nẻo lánh trần-gian, Chẳng hiểu mặn chay mới nhộn nhàng. Ngao ngán cho người ôi quá mép, Thương đời mê muội luống bầm gan. Đạo mầu chẳng hiểu nên lừa Phật, Hiển diệu ra cơ giác tỉnh phàm. Dạ luống ước mong đời bác-ái, Quyết lòng chỉ rõ nẻo Thiên-đàng. Hòa-Hảo, mùng ba tết năm Canh-Thìn Viếng non Ông KÉT
Non Tiên gió mát toại lòng thay, Tức cảnh thi văn nhả một bài. Cố tưởng ước mơ về nhược thủy, Ngăat vì không cánh lấy gì bay. Dắt xác phàm phu viếng non Đoài, Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay. Chư sơn Bảy núi đều qui tựu, Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày. Nhìn xem cây lá gió lung-lay, Sáng lại lui chơn trở gót hài. Vậy hỡi chư Thần mau nối gót, Theo Thầy dắt chúng khỏi mồng cay. Lầu đài núi Cấm lộ nay mai, Thức tỉnh chúng-sanh mới tỏ bày. Khuyên dạy dân tình minh đạo-đức, Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai. Trên non, ngày 14 tháng giêng năm Canh-Thìn (Đức Thầy đọc bốn bài nầy cho ông Hương-giáo ở Thới-sơn (Châu-Đốc) viết tại trên non và khi về nhà, Đức Thầy còn đọc lại cho anh em tín-đồ chép)
Ông TÙNG (ở vàm Cái-Đầm, thôn Hòa-Hảo) hỏi ĐỨC THẦY:
Càn-khôn Tạo-Hóa ở một bầu, Kính hỏi thăm Thầy vậy ở đâu? Sắc ở Tà-Lơn hay núi Cấm? Cán còn khâu mất cất ở đâu? ĐỨC-THẦY họa:
Cũng biết càn khôn vẫn một bầu, Tây-Phương yêu chúng chẳng ngồi lâu. Sắc của A-Di là Phật-Tổ, Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu? Ông TÙNG hỏi:
Cắc-cớ vì đâu khéo vấn-vương, Đem lời Phật Thánh dám bày tường. Thiên-cơ bất khả sao ông nói? Phật Thánh Tiên Thần dám phô trương. ĐỨC THẦY họa:
Hồng nhạn ô qui thán giả hồ, Thi thần đởm khí ngộ hà mô. Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh, Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô. Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng, Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông. Khai cảnh nguyệt đài minh hạ giái, Thới lai diện mục tác hài công. Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn (Ông Nguyễn thanh-Tân có họa hai bài thi trên đây nhưng xin miễn chép).
Viếng làng MỸ-HỘI-ĐÔNG (Long-Xuyên)
Canh-niên trổi bước thừa nhàn, Để chơn đến viếng xóm làng Hôi-Đông. Về non dạ luống ước-mong, Cám tình lê-thứ tuôn ròng lụy châu. Lời thăm cùng khắp đâu đâu, Hương thôn bổn-đạo lo âu mối giềng. Tu là tu Phật tu Tiên, Tu cho rõ biết chũ hiền ra sao. Mùa xuân chưa có mưa dào, Cũng như Đạo hạnh sắc màu chưa thanh. Sớm chiều phủi sạch lợi-danh, Tầm nơi chánh-giác cõi thanh đặng về. Hỡi ôi, thấy chúng bớt mê, Đạo mầu siêu-việt tập-đề là đây. Tinh-thần hiệp vén ngút mây, Vẹt cho rõ mặt tớ Thầy Hạ-nguơn. Lòng thương bá tánh đòi cơn, Dầu ai mua oán chác hờn mặc ai. Chuông linh giục thúc bên tai, Chúc cầu thạnh-trị thới-lai xóm làng. Hiệp chung một cuộc chi-lan, Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau. Lọc-lừa hiểu đặng vàng thau, Đem thân mua lấy mận đào thiên-nhiên. Duyên lành rõ được Khùng Điên, Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần. Làm sao khỏi chốn mê-tân, Đào-nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng. Thánh-nhơn ghi sách Trung-Dung, Hiền-nhơn thức-tỉnh biết dùng người ngay. Hội thanh hiệp mặt vui-vầy, Gắng cộng cố chí lòng nầy chẳng phai. Vinh-hoa dường thể cúc mai, Cuối mùa tàn rụi lâu dài đặng đâu. Thích-Ca Đạo vị huyền-sâu, Ra�ch tim xem được một bầu linh-quang. Mảng còn tư-lự tình-tanh, Thuyền từ tới bến thanh nhàn bớ dâu. Hóa-công chí thiện cầm cân, Công-bình thưởng phạt thứ-dân nào tường. Sum-vầy chiếc nhạn sâm-thương, Nho-văn cảm-kính hiền lương của người. Se-sua nói nói cười cười, Cao sâu lý-diệu vàng mười khó mua. Trần-gian thiếu trái chi chua, Bây giờ trái ngọt không mua bởi mình. Tới đây cạn lẽ phân-minh, Quyết đem chơn-lý đặng gìn Phật gia. Tài sơ trí siển nôm-na, Mặc tình chê ghét phận ta ta tường. Thoảng qua mùi diệu phô-trương, Kêu dân mau tỉnh trong trường mộng xuân. Keo sơn đâu cật liền lưng. Thấy trong bá-tánh nửa mừng nửa lo. Mừng là mừng việc hay-ho, Lo là lo việc ốc-sò trải qua. Tỉnh tâm mượn lấy thi-ca, Giác-dân hướng-thiện chánh-tà phân-minh. Rèn lòng giữ dạ sắt-đinh, Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh-thơi. Biển trần lao-lý diệu-vơi, Khổ tâm chắt lưỡi chiều mơi phủi rồi. Nhìn xem tâm não bồi-hồi, Sơ nhi đã lậu phá mồi vinh-vang. Chừng nào kim phụng hòa-loan, Đông Tây vô lự mới an sự đời. Thừa vưng sắc-lịch của Trời, Cùng ông Phật-Tổ giáo đời khuyên dân. Bấy lâu chạnh cám ô-ngân, Bây giờ hiệp mặt phân-trần sạ-dươn. Dập-dồi gió kép mưa đơn, Đau thương vì bởi nghĩa ơn chẳng tròn. Bày ra thiên-lý héo-von, Giấu trong tim-óc lòng son chẳng đành. Trải qua một lúc sỏi-sành, Trung-Ương hòa-hiệp mới đành lòng đây. Hoàn-cầu trái-đất chuyển xây, Gớm-ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn. Ngày nay đạo-đức chẳng màng, Rồi sau dẫu có tiền ngàn khó mua. Biển sông lặn-lội hơn thua, Tự thân tạo lấy mà mua cái sầu. Phật, nhơn, tạo hóa một bầu, Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau. Thân nầy sá quản cần lao, Miễn cho bá tánh được mau an nhàn. Ngũ niên viễn lự cơ hàn, Đến chừng qui phuc Hớn-Đàng mới yên. Bao la cảnh Phật cõi Tiên, Tòng mai liễu trúc hữu duyên khoe màu. Ngũ vân năm sắc năm màu, Kia qui nọ phụng lao-xao vui mừng. Vang-vầy sấm nổ chuyển-luân, Kiểng-tiên lộ vẽ vui mừng cha con. Bấy lâu nghĩa nọ tiêu mòn, Ngày nay hiệp mặt hết còn thở-than. Các nơi liệt-quốc chư-bang, Chúc cầu bình-trị trường-loan sum-vầy. Bây giờ làm việc tà-tây, Ngày sau bị khốn tội rày điêu-ngoa. Biết khôn tìm kiếm ma-ha, Một-câu lục tự nhà nhà bình-an. Xa-xuôi đường sá dặm tràng, Khó bề lui tới rỗi nhàn lao-lung. Lo bề cúc-dục cội thung, Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời. Bút nghiên tạm gát đợi thời, Chúc cho bá tánh xét đời biết ta. Mỹ-Hội-Đông, ngày 22- Canh-Thìn Ông NGUYỄN THANH-TÂM (tức Hương-Thân Ướng) xướng: Bóng thỏ đàlu rạng mặt rồng, Bống phương sĩ-tử nhóm càng đông. Trời Nghiêu phụng múa vòng tay áo, Đất Thuấn voi cày ruộng trổ bông. Biển lẳng sông trong chờ lịnh chánh, Nhà an nước trị lẽ thiên công. Kìa ai gói-gấm lời cơ-mật, Ức bụng kẻ hiền bớ núi sông! ĐỨC THẦY họa:
Non Lịch rừng nhu lộ vẻ rồng, Danh hiền bao rải khắp Tây-Đông. Chòm ong còn múa trong the áo, Nam-Việt giống nòi trổ nhụy bông. Mặt đất địa cầu qui lập chánh, Một nên Đạo hạnh lấy tâm công. Văn nhu áo não tìm cơ-mật, Sẽ hản việc đời hỡi núi sông! Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn Ông NGUYỄN THANH-TÂN xướng:
Tiết phong một võ nhứt thân khinh, Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình. Cực vọng nam minh dân tiếp thủy, Tường khan bắc chỉ thạch tranh vinh. Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt, Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình. Kim nhựt phùng chơn tu tận túy, Hưu tương ly biệt não bình sanh. ĐỨC THẦY đáp họa:
Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh, Cố viễn hà qua kiến hữu tình. Qui hóa ai thi hà quốc thủy, Đài phi sơn lãnh vị thành vinh. Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt, Tố giả vong bang kỷ tráng trình. Phúc họa trù phong nhiên Bích tí, Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh. Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN tức chín Diệm (làng Đinh-Yên, tỉnh Long-Xuyên) xướng:
Cường-khấu xâm lăng kỷ thập niên, Vị tri đại-đức giáng, hà Tiên? Hi-Di ngũ quí kim an tại, Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền. Độc nhãn sa-đà tàng Bắc-địa, Liên mi chơn mạng ẩn Nam-thiên. Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt, Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên, Tổ-tiên cứu loạn hựu phò nguy, Hướng thiện khử tà chúng bất tri. Vô tránh vô tranh thiên hạ thiểu, Toàn trung toàn hiếu thế gian hy. Ái mao vị tiện ngô đồng phụng, Tiết giác thâm tàng trạch thủy qui. Bất tận tam tâm danh lợi khách, Đáo đầu thâm mãnh niệm từ-bi. ĐỨC THẦY họa:
Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên, Sơn-Trung hồi giả bí danh tiên. Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại, Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền. Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa, Xích mi hải hội luật trừng thiên. Vị phi minh đế đồ tôn nhựt, Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên. Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy, Lượng trí bồi thành thử tất tri. Võ kỷ hùng phong nhơn mạt thiểu, Thần-Tiên tiểu ẩn cổ lai hy. Thí-sanh tán địa liên đài phụng, Nam-sĩ bài kỳ phục kiết qui. Vạn vật an-ninh thông điện khách, Nhứt trường lê-thứ kiến vô bi. Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN xướng:
Gió xuân muôn vật toại lòng rồi, Nghĩ lại bâng-khuâng đạo Chúa tôi. Cá phụ vẫy-vùng trong dấu cạn, Trông chừng đấu nước luống ngùi ngùi. Ngùi ngùi trông thấy đám mây xanh, Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành. Thẩm đến rừng nhu tơi vật sắc, Dù ai đấp lủy nguyện bồi thành. ĐỨC THẦY đáp:
Đạo-đức truyền ban cũng chửa rồi, Xa đường nguyện ước chuyện con tôi. Mưa tuôn vừa tiết ngư thong-thả, Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi. Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh, Sum-hiệp cùng nhau cội nhánh nhành. Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc, Quyết lòng trợ thế với bồi thành. Bồi thành mới phải đạo văn nhu, Có lẽ ngày kia rắn hóa cù. Lũ-lượt đoàn chim bay kiếm ổ, Rán mà theo dõi bờ văn-nhu! Văn-nhu vẹt phá sụp ao tù, Nước túng dân nghèo lại thiếu xu. Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp, Phân trần cụ lão chuyện người tu. Mỹ-Hội-Đông, đêm 22-1 Canh-Thìn Vịnh ông ĐỊA bằng sành (Để tại nhà ông hai Xòn ở Vàm-Nao thuộc tỉnh Long-Xuyên)
Bảng chẹ ngồi chơi sướng hỡi ông! Tâm lành sao chẳng tiếp non sông? Nhơn dân bốn phía đương đồ thán, Vui sướng chi mà lại tỉnh không? Mỹ-Hội-Đông, sáng ngày 23-1 Canh-Thìn Viếng làng PHÚ-AN (Châu-Đốc)
Lưng-chưng một bước lạ làng, Viếng thăm khắp chốn luận bàn huyền-cơ. Người đời lòng những ước-mơ, Một câu đạo-hạnh lỡ ngờ chuyện xa. Đêm khuya còn vắng tiếng gà, Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố-trần. Ô-kim vàng ấy ngàn cân, Dương-gian muốn đổi lập thân cho tròn. Trăm năm ghi tạc miễu son, Trung-quân ái-quốc hãy còn danh bia. Mặc tình tiếng nọ lời kia, Chẳng màng thế sự đặt-bia nhiều lời. Gẫm ra chuyện lạ ở đời, Kẻ ngu người trí nhiều lời phân-vân. Xưa kia bạo-ngược nhà Tần, Đem lòng hung-ác giết lần văn-nhu. Ước mong rắn đặng hóa cù, Đồng tâm hiệp trí chữ tu dắt-dìu. Lòng hiền giữ vẹn sớm chiều, Xem kinh niệm Phật mỹ-miều mặc-ai. Hưng-vong suy-thạnh xưa nay, Cuộc đời vay trả, trả vay đổi đời. Mấy ai trăm tuổi ở đời, Được như Bành-Tổ mà rời lợi danh? Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh, Lánh nơi trần tục học hành đường Tiên. Trả cho rồi nợ tiền khiên, Đến ngày hiệp mặt kiểng tiên vui-vầy. Làm sao rõ mặt tớ Thầy, Tới chừng trăng rọi đài mây mới tường. Bây giờ nạn ách còn vương, Cha làm con chịu nhiều đường gai-chông. Nhiều người kinh-sử lảu thông, Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê. Kiếm con hiền đức dắt về, Về nơi cõi Phật Tây-Phương an nhàn. Nợ trần con sớm liệu-toan, Nghĩa-nhơn trọn-vẹn mới an tấm lòng. Thuyền từ kêu gọi ngóng trông, Trông cho dân-chúng bớt lòng tham-ô. Chừng nào thấy được cơ-đồ, Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình. Đến đây thấy cảnh sanh tình, Lòng son đòi đoạn công trình dạy khuyên. Cứ lo chế ngạo Khùng Điên, Ngày sau chịu mãi chữ phiền chữ đau. Ngọt bùi lời đạo thanh-thao, Đời còn mê-muội chừng nào mới thôi. Vinh-hoa một bả làm mồi, Để câu kẻ dại việc tồi chất lên. Muốn mình lên đặng bực trên, Hãy lo rèn đúc mới nên Thánh-Hiền. Giống lành xưa cùng Rồng Tiên. Ngày nay hung ác đảo-điên khắp cùng. Mặc tình nghe phải thì dùng, Chớ đừng bỉ-bạc kẻ Khùng làm chi. Buồn đời gát bút nghĩ suy, Suy cho cạn lẽ sầu-bi quá chừng. Cầu ngã kiến văn tối thậm đa, Thiện duyên tác phước ý như hà. Phô trương vạn luong tam hài tuế, Hội thính nạ thời kiến thạnh hoa. Viễn lự ô hô chí Lão Bành! Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh. Hải qui thế-giái nam hòa vọng, Nguyện dữ như hà dụng thức canh. Kim phụng triều vương viễn khứ đình, Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh. Duyên-do phước thọ lai duy hiển, Thủ đảnh thư hùng thục sử-kinh. Quang-minh diện-mục khả hồ sơ, Nhứt diệu phù-vân phú-quới cơ. Quân-tử Thánh-nhơn hà đại lượng? Liên hồng vạn thứ cảnh thiên-thơ. Chợ-Vàm (Phú-An), ngày 23 tháng giêng Canh-Thìn, tại nhà Hương-Hào Phỉ.
Cho Thầy ba THẬN ở làng Phú-Lâm (tỉnh Châu-Đốc) Đem vắng mà sao cảm quá dài, Văn-nhu lão trưởng tiếng bi-ai. Tầm nơi yếu lý câu huyền-diệu, Thương thảm cho đời thưởng huệ mai. Đoái tưỡng lòng ông quá đỗi hiền, Dậm tràng tới viếng mượn ngòi nghiên. Tỏ tình yêu quí người lương thiện, Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng. Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn TỎ CÂU HUYỀN-BÍ
Đời đạo liên quan rạng chói ngời, Trần-hoàn biển khổ thẳm vơi-vơi. Thanh minh đạo-đức câu huyên-bí, Mượn lấy bút nghiên tỏ ít lời. Hồng-Lạc giống xưa rất tuyệt vời, Sao mà dương-thế mảng lo chơi. Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí, Đạo-đức nhiệm sau lão khuyến mời. Thiên sanh thiện tánh tác thì gia, Tông-tích cổ kim lượng thử hà. Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp, Ngã hồi dương-thế thuyết huyền ca. Đài phong liễu khước tạo Nam-gia, Thiện chí hồ thiên thức Ngọc-tòa. Trung sơn tế giáng Lư-Bồng kiểng, Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa. BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng, SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang. KỲ sanh tạo giả thi truyền tục, HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang. Ngũ hồ ly cấu tạn hài tiên, Nguyền thuyết thanh danh tác thiện duyên. Thậm thâm tối thiểu kim tàng cốc, Đa giả khứ hồi giải nghiệp-duyên. Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ, Ngã thứ trung sanh trực thề thờ. Ngỡi khí yên hùng ghi đảm liệt, Hà giang lương thố vẽ thiên-cơ. Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi, Vạn năng sĩ-tử hiệp hòa ngôi. Tam thanh truyện tích ghi biên tự. Khán giả tận tường liệt võng khôi. Canh niên viễn lự tối thi thần, Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân. Nam thức quân thần cuồng lão-sĩ, Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân. BỬU kiến trừng tâm dụng thể tiên, SƠN sanh giả kế chưởng huyền thiên. KỲ thâm hạ giái ly đài nguyệt, HƯƠNG vị tarầm thinh bí kỷ niên. Phú-An, đêm 23-1 Canh Thìn Cho ông PHAN THANH-LONG
Long rày năm mới thiệt là rồng. Mèo-mả bạc-bài bỏ được không? Hiệu, Khuynh cùng gã mau liền lại, Kẻo để ngày sau chịu não-nồng. Trường học Phú-An, ngày 24-1 Canh-Thìn DIỆT TIỀN KHIÊN
Bồng-Lai như khứ khổ nan truyền, Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên. Quốc-thủy dài chương trung liệt cổ, Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên. Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn, Danh tiên liễu bá định hồi yên. Vị phi lai tục đa ưu lự, Sơn hải diền viên tất tảo nan. Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn ĐỂ CHƠN ĐẮT BẮC
Để chơn đất bắc Thầy trò, Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao. Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao, Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam. Chúng dân tựu ngũ tùng tam, Kẻ ma người mị kẻ ham người cười. Làng nầy đông-đúc nhiều người, Dân tình cũng được đôi mươi tu hành. Nhiều người già cả lòng lành, Có nhiều kỳ lão biết rành tích xưa. Tới đâu cũng it người ưa, Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành. Trưng bày tích cũ đành-rành, Thiên-cơ đạo-đức tu hành phận tôi. Dân quê nghe nói hỡi ôi! Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo. Đâu đây mà có hùm beo, Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì? Thấy trong lê-thứ cũng kỳ, Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ. Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ, Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm riềng. Cũng không thèm trọng bạc tiền, Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi. Bắc-kỳ dân ít mép-môi, Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-chề. Thương dân nên chịu nặng-nề, Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao. Tớ thầy nào nệ cần-lao, Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn. Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng, Tam cang trung-trực người rằng ngu-si. Viết ra mới bốn bài thi, Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên. Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên, Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng. THƠ rằng:
Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn, Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn. Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc, Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn. Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần, Cồ quán thôn-hương nhứt dị nhân. Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa, Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân. Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền, Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên. Kiển-sám truyền danh lưu hậu thế, Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên. Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà, Cổ súy lương thần vị phong ca. Thọ tử tâm trung trưng hùng khí, Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa. Bốn bài thơ đã làm xong, Văn-nho bàn-bạc nhiều ông lắc đầu. Nghĩ ra mới biết cơ cầu, Người chi thi-phú công-hầu cổ nhơn. Nghiệm suy lời lẽ thiện hơn, Dặn-dò bá tánh thi ơn xóm làng. Nào ta có nói bướng càn, Về An-Giang tỉnh rõ ràng ai hay. Từ đây Nam Bắc chuyển quay, Khi đây khi đó ra tài khuyên dân. Tuần-huờn tạo hóa cầm cân, Ở đây cũng dạy hương-dân đủ đều. Xác nghèo nhà tợ cái lều, Cơ-hàn rách-rưới nhiều đền nan nguy. Tuy là gia-trạch hàn-vi, Nhưng mà hiền-đức khác gì người xưa. Nhiều người lối xóm đẩy-đưa, Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài. Nước tràn ruộng lúa lạc loài, Bắt đầu lo chuyện miệt-mài bắp khoai. Giáo-truyền lời lẽ thẳng ngay, Hương-lân trùm-trưởng đắng cay nhiều bề. Thầy trò ra sức làm hề, Ca tuồng ly-loạn dựa kề biên-cương. Có nhiều chệc khách Minh-hương, Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu. Chú lùn Nhựt-Bổn hùng-hào, Chẳng thương sanh-mạng dân Tàu dại ngu. Bởi chưng hung-bạo chẳng tu, Cho nên gây sự lu-bù chiến-tranh. Bắc-Kỳ Trung-Quốc giáp ranh, Sao không xem đó tu hành hiền lương. Cá không ăn muối cá ươn, Chẳng nghe lời dạy lâm đường chông gai. Hát tuồng Trung-Quốc quá dai, Ta bèn bỏ bản hát bài đà-tinh. Cả kêu lớn nhỏ đệ-huynh, Từ đây nhẫn nại chống kình làm chi. Bút nghiên lôi lại làm thi, Đặng cho sanh-chúng bớt nghi tinh-tà. Cổ qui tài tận hận do Tần, Thiện chí tu trì lập vĩ thân. Tồn tại hư vô tầm Bát-nhã, Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần. Điền tan gia phế tế nhiên hàn, Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang. Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo, Bần phú cơ đồ bất tự sang. Nôn nải kìa ai nhọc mưu cầu, Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu. Kiên cố của tiền thiên đạo lý, Cấp hồi ái truất trót canh thâu. Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài, Biên hình liên huệ tất ư giai. Kiệm kỷ tha lam mi hài-chí, Long trì phi ẩn tạo kiền khai. Ngạo cảnh du vân triện Bắc-hà, Quá khứ trú đình vịnh ngân ca. Thanh tích cổ nhân tân cừ khí, Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa. Thâm canh bất mến công hầu, Trông cho lê tứ gặp chầu vinh-huê. Ở đâu dân cũng còn mê, Tham câu danh lợi khó kề Thần-Tiên. Tư lương một mối sầu riêng, Long thiền đãi ảnh vị thiên cô phần. Ngảnh ngao tái chí thi ân, Biện minh chí hứng đền lân dựa kề. Huy hoàng hương nến tự thiên chi, Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ. Lôi chất khai âm vô sắc thí, Ngại hồi bi hiện án tiền phi. Rừng thông bên cạnh gần kề, Bôn-phi lê-thứ nhiều bề gian-nan. Bắc-kỳ còn hỡi hò khoan, Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng. Thấy đời cũng luống động lòng, Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi. Dạo miền thành-thị một khi, Chán-chê thế sự sầu-bi trong lòng. Ca xang thảm cảnh não-nồng, Cả kêu dân-chúng Lạc-Hồng hỡi ơi! Giống xưa Tiên cảnh tuyệt vời, Ngày nay đã lạc đạo đời nhuốc-nhơ. Người hiền nghe thấu ngẩn-ngơ, Đớn đau sắp đến bơ-vơ một mình. Muốn xem được hội Long-Đình, Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn. Ở ăn cho vẹn mười ơn, Cảnh tình hiền-đức gặp cơn khải hoàn. Gắng công khỏi buổi nghèo nàn, Sum vầy một cuộc Hớn đàng toại thay. Người nào vẹn được thảo ngay, Dựa kề cửa Thánh đài mây an nhàn. Khuyên răn cuối xóm cùng làng, Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi. Việc đời nhiều nỗi sầu-bi, Hạ-nguơn đã hết loạn-ly cơ đồ. Bây giờ còn hỡi mờ-hồ, Chẳng nghe dạy chỉ cơ-đồ về sau. Thử xem cho biết vàng thau, Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng. Tu hiền như thể phụng rồng, Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay. Bây giờ rán chịu đắng cay, Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên. Đạo đời nào có tư riêng, Minh-Vương sửa trị mới yên ngôi Trời. Xa-xăm các chỗ các nơi, Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên tri. Kẻ hung ngạo-nghễ khinh khi, Nữa sau đến việc sầu-bi nhiều bề. Tớ Thầy non núi dựa kề, Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên. Quyết lòng rửa sạch tiền khiên, Ra oai ra lực hùng-yên mới là. Bây giờ còn liệu tây tà, Cho nên đạo-đức khó mà cạn phân. Nam-thiền báu ngọc châu trân, Phật Tiên phân định tấm thân mới nhàn. Duyên sự đê-mê cảnh Hớn-đàng, Lần dò cho thấu nẻo Tiên-bang. Xuê-xang mấy kiểng nhìn sương gió, Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn. Mê-man danh-lợi cõi hồng trần, Có một hội nầy lập lấy thân. Nếu để trễ chầy e chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần. Huyền-vi cơ đạo kiến linh kỳ, Tự thán dướng-trần tốc kham bi. Vô vị phi liên tâm phế kỷ, Điểm hồng nê địa tự thiên chi. Chừng nào thấy được phụng hoàng, Rrồng chầu chớp-nháng Hớn-đàng hiển-vinh. Sớm chiều rèn đúc kỉnh-tinh, Ngày sau mới thấp phép linh của Trời. Ai ai cũng ở trong đời, Chốn nào không đạo là đời vô liêm. Xét suy cho cạn cổ kim, Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn. Ta đây ưa ghét mặc tình, Dương-gian cứ mãi chống-kình làm chi. Chừng nào thượng-cổ hồi qui, Thế-trần mới hết khinh-khi Phật Trời. Tu hành đạo-đức rao mời, Như người ngu dại với đời loạn-ly. Ở sao cho biết tôn-ti, Dể-ngươi Phật Thánh sầu-bi mãn đời. Khùng-Điên ẩn-nhẫn tùy thời, Có-cơn giả dạng dắt đời hạ-nguơn. Mặc tình ai nói thiệt hơn, Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời. Luân phiên Thầy Tớ tách vời, Chẳng nài lao-lý miễn đời bình an. Tiếng đờn hò liếu cống xang, Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh. Buổi nay nhằm lúc vắng thanh, Lời ta khuyên đó như cành ghẹo chim. Trau dồi đúng bực thanh liêm, Nữa sau mới biết thành kim đền đài. Việc đời nhiều lúc khôi-hài, Quyết lòng cho thế một bài học hay. Chuyển miền Nam địa lung-lay. Nam Trung cùng Bắc một tay giáo dời. Thiếu ai mà bị réo mời, Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên thinh. Trớ-trêu phải mượn kệ kinh, Mặc tình dân-sự biện minh lẽ nào.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:02 | |
| - 1940B:
Những bài sáng-tác năm Canh-Thìn (1940)
(Tiếp theo)
THI
Thâm-trầm đạo-đức quá thanh-thao, Rừng-rú kệ-kinh cắt khoen rào. Rước đưa sanh-chúng rời bể ái, Thủ-thét cho cùng cạn thấp cao.
Liên lụy trần mê bể ái hà, Bỗng xuất thoàn tình mượn thi ca. Thể-thống Thần Tiên kiên bế chí, Tương đồng sanh-chúng gội ma-ha.
Si lung á giá tọa phú hào, Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao. Thố tử hồ bi ghi chí hứng, Đại đồng đạo cả khắp trùm bao.
Toan ly bể khổ, khổ tới à! Dân-sự an-nhàn sướng dữ a! Ta mảng lòng lo gìn sanh-chúng, Gội nhuần án-đức vịnh phong ca.
Ma-ha thoàn nhỏ đã dọn rồi, Chèo lái trương bườm chớ thả trôi. Bến giác bờ mê, mê phải tránh, Ly-biệt hồng trần hỡi ai ôi!
Liên-hoa chín phẩm ở ngọc tòa, Được lịnh Thiên-Hoàng nấy sai ta. Hạ-giái dạy khuyên truyền đạo-lý, Giả dạng Điên-Khùng mượn thi ca.
Ham vui đào mận chẳng xong rồi, Trung hiếu giữ-gìn phận con tôi. Thế-sự bao la ta chẳng quản, Tiên-cảnh non Bồng sẵn vị-ngôi.
Nước non náo-nức giống nòi Hồng, Gắng chí kiếm tìm chủ-nhơn ông. Tuổi trẻ đầu xanh khoanh tay rế, Liệu-lượng thâm tình tơ biển sông.
Thay cảnh đổi lòng nỗi biệt-ly, Muốn gặp bảng son với linh-kỳ. Noi sức bình-sanh quanh nước lủa, Có một ngày chờ hội ứng thi.
Hồn thơ Tiên Thánh sánh đạo mầu, Chẳng thấy việc đời mảng góp thâu. Tóm tắt ít lời âu diệt chủng, Thế-sự mê hồn lụy song mâu.
Cha nọ bồng con vợ khóc òa, Tan nát xóm diềng khổ dữ a! Nhà không kẻ ở, ôi! nói trước, Nếu chẳng tin lời gặp thiết-tha.
Lời xưa di tích rõ việc nầy, Ai muốn mắt phàm gặp Rồng Mây. Hãy rán nghe lời ta mách trước, Không gìn đạo-đức phải phơi thây.
Thương dân xuống bút tay đề, Dặn-dò bá-tánh chớ hề lợt-phai. Cuộc thế-giới chuyển lay như chóng, Khuyên dân tình hãy lóng mà nghe. Lam-kiều hữu lộ vắng hoe, Ngục môn không cửa mà hè nhau đi. Thảm cho trẻ hài-nhi liệu-điệu, Vợ xa chồng bận-biệu thê lương. Phong trần dày-dạn gió sương, Chư bang ham báu hùng-cường đua tranh. Còn một cuộc chiếu manh giành xé, Khắp hoàn-cầu ó-ré một nơi. Dòm xem châu ngọc chiều mơi, Sao đời không sớm tách dời cõi mê. Để đến việc thảm-thê thê-thảm, Mắt phàm-trần tường lãm bi-ai. Cũng đồng cốt-nhục hoài thai, Nên ra rán sức miệt-mài dạy khuyên. Thơ với phú Thần Tiên giáng bút, Bởi cơ trời đà thúc bên lưng. Không tu chừng khổ cũng ưng. Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay! Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài, Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai. Tỏ thuyết huyền-vi sanh-chúng rõ, Năng kỳ liên huệ tất biền lai.
Tư lương đeo duổi giấc mộng sầu, Bớ hỡi dương trần khá liệu âu. Nước lửa dến chưn, ôi! khó nhảy, Co giò phóng riết lọt ngoài sâu.
Huyền cơ đạo-hạnh hãy rán tầm, Đời cùng Tiên Phật dụng nhơn tâm. Ngàn năm Thích đạo đành chôn lấp, Thương tưởng bá-gia nỗi lạc lầm.
Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến, Sao dân còn triếu-mến trần-mê? Mắt nhìn ngoại quốc thảm-thê, Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai. Cuộc biến động nay mai nguy ngập, Một hội nầy rán lập thân danh. Kìa kìa các bực công khanh, Miễu son tạc để đành rành chẳng sai. Đất với nước hậu lai vinh-diệu, Đạo lo tròn yểu-điệu tấm thân. Một câu quân lý tứ ân, Ta đùng phai-lợt phong-thần bảng ghi. Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn (Chép theo bổn chánh của Đức Thầy do Đức Ông giữ) GIỌNG KHÀN
Lập chí giác dân đến giọng khàn, Cảm tình bổn-đạo ngặt lời khan. Tạm ngưng lý-lẽ trong đôi bữa, Xin chớ bỏ qua rất muộn-màng. Muộn-màng chơn-lý khó bằng an, Thế thái trần mê giải mộng tràng. Hỡi giống Tiên-Rồng mau mở mắt, Kiếm tìm đạo-lý lánh hùm lang. Hòa Hảo, tháng 2 năm Canh-Thìn Cho ông Tham-Tá NGÀ (con của ông Đốc-phủ Lê-quang-Liêm tức Bảy) Lòng buồn gặp kẻ xa-xôi, Lâu-la đến chốn buôn mồi vinh-hoa. Xả thân tìm kiếm ma-ha, Chẳng nài viễn-vọng dẹp tà nơi tâm. Nay gặp bạn tri âm tri kỷ, Cho những điều thiện mỹ cổ lai. Đừng nên sớm vội lợt phai, Xe dây cho chặt mà nài tánh linh. Nền đạo-đức sắc thinh chớ mến, Có thuyền từ đưa đến non Tiên. Cứu người hữu phước thiện-duyên, Về nơi cõi Phật khỏi miền trần ai. Kẻ ác-đức hậu lai khổ thảm, Mắt phàm trần tường lãm hồ binh. Mấy lời dặn bảo đinh-ninh, Gắn-ghi chạm dạ Long-Đình được xem. Mùi đạo-diệu gỏi nem khó sánh, Chốn trà-đình xa lánh vãng lai. Tu hành nào luận mặn chay, Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư. Nền đạo-đức vị tư bất nhã, Ta đừng phân nhơn ngã mới hay. Nhìn đời thế thái đổi thay, Hết vinh tới nhục lẽ nầy thường xưa. Đời (1) vật chất văn-minh chiều-chuộng, Vì thời lai vận bĩ trải qua. Lòng sắt-son đây đó nõn-nà, Thâm não bít bê-tha chậm trễ. Tu với tỉnh bảo toàn thân thể, Giữ đừng mòn linh tánh mới hay. Nỗi bút-nghiên phận lão cạn bày, Câu diệu-lý cơ-huyền khó kiếm. Sá chi kẻ dùng lời bao-biếm, Che Điên Khùng khó kiếm cho ra. Não tâm tràng sớm dứt ái-hà, Nên phải vội lìa xa cõi tạm. Quyết chỉ nẻo lánh vòng hắc ám, Đạ�o và đời thăm-thẳm sâu-xa. Diệm Hồng-Liên thơ-thớ quần ca, Tạo duyên giả phàm gian thân giả. Chớ lấy đó mà tâm buồn-bã, Hiệp-hòa nhau chờ đợi năm non. Khìa hỡi ai giữ phận cho tròn, Sau huynh-đệ có ngày hòa hiệp. Chớ nản chí đường tu bỏ líp, Trổi bước sang gặp lão thế ngôn. Trổi hùng phong cốt cách duy tồn, Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất, Lão cũng tỏ đôi lời khờ-khật, Câu huyền sâu cho đó ngụ ngôn. (1) Lúc hầu chuyện với Đức Thầy ông Ngà có khen ông Lê-văn-Trung và nói nếu ông Trung còn sống thì câu chuyện đạo-đức với Đức Thầy ắt là lý thú lắm. Đức Thầy mới viết thêm đoạn dưới đây.
Mã song phi viển-vọng tâm-hồn, Hành thế lữ đêm dài cạn tỏ. Giết cho sạch những loài sâu bọ, Giống hại người lúc bỏ rẫy trồng. Huệ tâm khai ngữ chuyễn huyền thông. Sanh hồi thiện đôi câu thành-thật. Đêm vắn tắt vài lời để cất, Gát ngòi nghiên tạm biệt phàm gian. Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn, Để chuyến khác cạn câu hoài vọng.
Dậm tràng đó mới chuyến sang chơi, Tỏ ý Thần Tiên khá nhận lời. Huyền-pháp thâm-trầm thơm bất tuyệt, Vô-vi chánh đạo hỡi người ôi!
Người ôi! chơn-lý thậm lâu đời, Thâm cảnh diêu-huyền hẹn một nơi. Hòa mặt Trung-Ương tam điệp khách, Đợi chờ thiên-luật mới về ngơi. Về ngơi chốn ấy rõ như lời, Nào lão có bày chuyện khuấy chơi. Vẽ việc Trời xanh cho đó biết, Một lòng gắn chặt chẳng xa lơi.
Xa lơi đạo-đức khổ tâm à! Học cũ ít bài lão thiết-tha. Bóng xế tà tây ôi! lắm thể, Dạ hiền cất bút mượn thi ca.
Thi ca nhiều nẻo thậm rồi đa, Hồi tị sứ thần dạy chuyện xa. Lánh thế chẳng bày danh lão sĩ, Ngày nay các chỗ ngộ cuồng-ca.
Hòa-Hảo, lối tháng 2 năm Canh-Thìn (trong lúc ban đêm)
KHUYÊN NGƯỜI GIÀU LÒNG PHƯỚC-THIỆN
Mắt nhìn Kỷ-Mão vừa qua, Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm. Ruộng đồng chẳng có rạ rơm, Trâu bò ngóng cổ nhà nông héo lòng. Canh Thìn bước tới thiệt Rồng, Trông cho mùa khác ruộng đồng ra sao. Nhà nghèo dạ tợ như bào, Vợ đau con yếu phương nào cho an. Cả kêu cùng khắp xóm làng, Mấy ông điền chủ cứu nàn mới qua. Làng gần chí những tỉnh xa, Lúc xưa thì cũng ruột-rà với nhau. Ngày nay tốt phước sang giàu, Xin thương kẻ khó giúp hào một khi. Cậu cô chú bác cùng dì, Khắp nơi thầy chú một khi hảo lòng. Việc nhà quí bạn đã xong, Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn. Lão đây thân khó chẳng sờn, Tỏ lời khuyến-khích tợ đờn Bá-Nha. Ông nào lòng dạ hải-hà, Đông tình bác-ái ra mà làm đi. Giúp người đói khó nhu-mì, Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay. Bà nào góa bụa hữu tài,
Tiền nhiền đất rộng cò bay mút đồng. Cơn nầy bố thí cho xong, Để khi nhắm mắt bên chồng giành chia. Ông bang các chợ xẩm hia, Tiệm hàng thạnh mậu nhờ dân ruộng vườn. Ngày nay thất bát khá thương, Tiền nong chẳng có cơm lường cho qua. Mắt nhìn lòng ứa ruột-rà, Cả kêu bổn đạo ai là thiệt tu. Muốn cho rắn đặng hóa cù, Xả thân làm phước Diêm-phù vượt qua. Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát loan khó mà yên thân. Phong trần ai cũng phong trần, Được sang nhờ của người bần góp thâu. Thấy đời lao-lý mà rầu, Giúp cho chúng nó ngõ hầu làm ơn. Xin quên mấy lúc giận hờn, Ra tay tế-độ nghe dờn Tây-qui. Xây vần trời đất tiết thì, Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai. Cổ kim hiếm lúc nạn tai, Hưng vong suy thạnh bằng nay lẽ thường. Lớn ròng nạn ách phải vương, Muốn qua truông khổ tìm đường Bồng-lai. Ngày kia được trở gót hài, Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi. Giầu sang nghèo khó cũng người, Nên ta thương hết dầu cười hay khen. Lòng nhơn xin khá tập rèn, Thạch-Sùng Vương-Khải sách đèn ai ưa. Thánh-hiền roi tích đời xưa, Nhờ tâm từ thiện người ưa kính thờ. Chết rồi bỏ của bơ-vơ, Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời. Xác phàm có mấy lăm hơi, Hỏi vay có một mà lời đôi ba. Của dư cho mượn mới là, Hảo tâm bố thí ngọc-tòa được lên. Chê nghèo, giàu nọ đâu bền, Chi bằng bố đức lập nền từ-bi.
Con hiền khá sớm hồi qui, Nghe lời Thầy dạy kịp thì bớ dân. Dòm xem kẻ khó tảo tần, Ruộng tâm sang-sớt dắt lần với nhau. Nghèo thời cũng rán cháo rau, Chớ đừng gian-xảo ngày sau thanh-nhàn. Bần cùng cũng sớm liệu-toan, Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu. Mộ khan thần tỉnh cần triêu, Khỏi cơn hoạn-nạn Lam-kiều được lên. Ít ai giữ đặng chí bền, Tu theo nước lớn ròng bèn thả trôi. Tuy xa mà tới mấy hồi, Đất còn lở thét phải bổi tự nhiên. Thảm thương cho kẻ tá-điền, Gặp cơn lúa ngập của tiền ráo tay. No chiều rồi lại đói mau, Gia bần trí đoản đắng cay nhiều bề. Lo tròn cha mẹ nhi thê, Nhằm năm lưng túc não-nề tâm trung. Khá thương những kẻ bần cùng, Tâm lành dư của hãy dùng vào đây.
Sột-sột nhà sau mụ vét nồi, Ông chồng quần áo rách lôi-thôi. Bầy con ngơ-ngác đòi xơi bữa, Lũ nhỏ giành nhau lấn chỗ ngồi. Khua đũa mèo mun ngờ chủ thảo, Muỗng rơi chó vện tưởng cho mồi. Lầm than đói khó vì tai-ách, Hỡi kẻ sang giàu cức nạn trôi.
Nạn trôi lúa ngập đói còn xa, Điền chủ mau mau nghĩ tận mà! Tế-độ dân nghèo trong lúc túng, Giúp giùm kẻ rối buổi vừa qua. Có ăn dư huệ nhờ thân nó, Nghèo khổ bần phu thảm dử a! Nếu đã xả thân tầm đạo-đức, Mở lòng bố thí ngộ thần xa.
Tỏ lời nhắn-nhủ khắp đâu đâu, Vạn-vật từ nay luống thảm sầu. Áo-não thương đời đa đói khổ, U-buồn trăm họ vẽ vài câu.
Hòa-Hảo, ngày 25-2 Canh-Thìn (Đức Thầy viết bài nầy để kích-thích lòng bác-ái của những bà giàu có ở xứ xa đến viếng Ngài).
DẶN-DÒ BỔN-ĐẠO
Tháng năm mười tám rõ-ràng, Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo. Xuống trần nhằm buổi nạn eo, Gẫm trong dân-sự còn nghèo chữ tu. Hạ-nguơn sanh-chúng ám-u, Tây-Phương sắc lịnh vân-du Nam-kỳ. Mượn nhằm một xác nhu-mì, Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao. Rất buồn bá tánh biết bao, Nạn nguy sắp đến mà ngao-du hoài! Viết ra giảng kệ bốn bài, Giã-từ trần-thế lui hoài bôn-phi. An-Nam phong-hóa lễ-nghi, Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn. Mảng lo chế nhạo chống kình, Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương. Ta đây dường thể như lươn, Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu. Sáu trăng Thầy tớ dãi-đầu, Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi. Bồng-Lai Điên dại có ngôi, Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen. Từ-bi ngọn đuốc mới nhen, Giả như mở cửa mà then còn cầm. Dân tình xài-xể dập bầm, Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh. Xác trần ta mở oai thinh, Đạo mầu truyền pháp thình lình không hay. Trớ-trêu con tạo thày-lay, Lôi-âm sắc lịnh đòi rày hỏi han. Cúi đầu tâu trước Phật đàng:
�Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi. Đầu đuôi tâu lại khúc nôi, Một trăm mới đặng ối thôi mười người! Mãng lo cao thấp ngạo cười, Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo. Di-Đà nghe tấu buồn xo, Vạn dân bá tánh đắn-đo nhiều bề. Làm sao cửa Phật dựa kề, Hung sùng tàn ác khó bề dạy khuyên. Thầy khùng trò lại hóa điên, Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ! Tượng xưa dấu cũ còn mờ, Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương. Nói cho bổn-đạo đặng tường, Dạy dân nào có gạt lường chi dân. Chim ô đà dựa cầu Ngân, Người xưa trở gót mấy lần ai hay. Đời nầy chưa vẹn thảo ngay, Thì là khó thấy mặt mày người xưa. Dạy đời nào quản nắng mưa, Ước mong bá tánh sớm ưa tu hành. Đục trong bốn cuốn ngọn ngành, Khuyên đời trau trỉa chữ lành cho xong. Con người có Tổ có tông, Học hay chữ nghĩa sao không phượng thờ? Hiếu trung truyện tích sờ-sờ, Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha. Từ đây ta mắc bôn-ba, Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên. Vạn dân nên trọng Phật Tiên, Dể ngươi lời dạy dọa riêng một mình. Băc, Nam chờ đợi cuối Thìn, Sẽ lo vận chuyển thân hình xác ta. Viết thêm một khúc ngâm nga, Dặn dò bổn đạo vậy mà mấy trương. Ta dầu có cách thôn hương, Vạn dân cứ chữ hiền lương mà làm.
Thích-Ca còn phế tước hàm, Lầu cao cửa rộng mà ham tu hành. Phật, tiên dụng kẻ lòng thành, Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm. Trí phàm như chốn sơn lâm, Dạy dân như phá rừng cầm cho dân. Nào đâu dân có biết ân, Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi. Đây nầy lời lẽ rán ghi, Thương đời nên mới làm thi khuyên đời. Ra đi dặn lại ít lời, Khuyên trong bổn-đạo vậy thời rán nghe. Dầu ai tài phép bày khoe, Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo. Lựa cho phải cột phải kèo, Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm. Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình. Ách trời nạn nước thình-lình, Người hung cứ mãi chống kình với ta. Theo tài học cũ nôm-na, Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu. Lúc rày chưa thể ngồi lâu, Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn. Tín-đồ cùng các chư-tăng, Từ rày sắp đến nói năng chọn lời. Bớt phiền bớt não cuộc đời, Rán nghe lời dạy vậy thời hành y. Đạo mầu bát-chánh rán ghi, Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn. Luận bàn chơn-lý cho minh, Chuyên chi xét đoán xảo tinh mới là. Thứ nhì chánh-mạng vậy mà, Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai. Thứ ba tư-duy bằng nay, Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu. Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu, Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay. Tà gian tánh ấy tù đày, Của người tham nhũng nghề nầy chớ ham. Thứ năm tinh-tấn hội đàm, Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan. Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan, Nói năng điều chánh thì an chớ gì!
Thứ bẩy chánh-niệm vậy thì, Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm. Thứ tám chánh-định chớ lầm, Từ-bi hai chữ đứng nằm chớ quên. Ngồi dâu cũng định mới nên, Đừng cho công việc hớ-hênh với người. Hành y thì đáng vàng mười, Tùy lòng tùy sức của người đời nay. Tu nhơn hiền hậu cũng hay, Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh. Rút trong các luật các kinh, Tùy lòng không ép làm in giảng nầy. Thấp cao các bực chớ chầy, Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên. Sớm khuya bá tánh cần chuyên, Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề. Ít lâu ta cũng trở về, Khuyên cùng bồn-đạo chớ hề lãng-xao. Trì lòng chớ có núng-nao, Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần. Mấy lời nhắn lại ân-cần, Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay. Tu trì nguyện ước cầu may, Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an cư. Học câu hỉ-xả đại từ, Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần. Bôn Nam tẩu Bắc tảo tần, Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng ta. Xác trần ta đã rời xa, Bá-gia ở lại vậy mà bình-an. Kia-kia anh hố hò khoan, Tình lang về mất hổ-han mặt-mày. Sớm lo sắp đặt luyện tài, Phật Trời phân định mặt mày mới xinh. Ơn trên lượng rộng thinh-thinh, Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không. Giống hiền như thể gieo bông. Nhụy đơm thơm phứt màu hồng xuê-xang.
Dân ta dòng giống Tiên-bang, Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung sùng. Mặc tình bá tánh có dùng, Ai muồn nghe Khùng chép lấy mà coi. Lấy tâm lấy trí xét soi, Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào? Thôi thôi dân chớ hùng-hào, Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô
Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn (Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giư)
MUỐN RÕ ĐẠO MẦU
Đạo mầu diệt khổ có từ lâu, Thần-Tú ra đời lại góp thâu. Chuông mõ, sám kinh bèn cải sửa, Xá phướn truyền-lưu lấp đạo mầu. Niệm chữ A-Di dẹp lòng sầu, Rán trì kinh-kệ hoặc mau lâu. Cũng có ngày kia ta giải-thoát, Giải-thoát thì ta rõ đạo mầu. Tây-Phương Cực-Lạc Phật hằng-hà, Ta rán bền lòng Phật chẳng xa. Trong cõi trần mê còn mong đợi, Thấy Phật trì tâm đến năm gà.
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
TRÔNG MÂY
Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa, Ấy la tại lịnh Ngọc-tòa sai ta. Xuống trần thấy chúng thiết-tha, Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi. Chừng nào mới dặng thảnh-thơi? Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân. Tây-Vức liên Nam hiệp định phân, Tam giáo qui nguơn viện lý cận. Hùng anh Phiên-quốc lai hàng phục, Đinh Hợi đáo niên tạo thiên nhân.
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn (trong khi Đức Thầy cảm hứng)
LÝ-LỊCH
THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao sâu, ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu. ĐẠI pháp vô-vi là chơn lý, THẦN làm trọn vẹn khởi lo âu.
Huỳnh long tưc thế gần sanh-chúng, Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu. Tiên cảnh thoát-ly truyền bá kỷ, Năng tầm Phật-lý rạch từ câu.
Oai hùm chấn động một góc trời, Độ chúng ra kinh rải khắp nơi. Cứu thế chẳng mong ơn ai trả, Nương xác phàm phu ngõ đợi thời.
Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn, Tự giác âm thầm kiến Tiên-bang. BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí, Tứ hải bất hòa khởi liên giang.
KHUYÊN SƯ-VẢI
Trước đài sen báu ngát hương đăng, Hai chữ nam-mô ấy lẽ hàng. Thề-sự biếng đua bề lợi-hại, Tâm-trần rửa sạch mới siêu-thăng. Khuyên trong sư vãi mau mau tỉnh, Luân hồi quả báo rất công bằng. Mang tiến xuất gia sao chẳng liệu? Đao-đức xong chưa hỡi chư tăng?
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
�XUÂN-HẠ TÁC CUỒNG-THƠ�
Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt, Thời-vận hèn dụng nhược thắng cang. Cầu cho bốn biển bằng an, Chúc câu lai thới xóm làng vĩnh-miên. Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục, Đứng trung-thần gạn đục tầm trong. Gìn câu thủ cựu gia phong, Gom nhành lá rụng vun trồng giống xưa. Tơ lòng nhiều đoạn đẩy-đưa, Mong ơn Phật-Thánh phước thừa cho dân. Chúng lấy thuyết vô thần bài bác, Quyết một ngày thông đạt địa thiên. Chúng-sanh nghe thửa lời truyền, Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm. Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ, Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển vang. Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn, Tử-Kỳ trổi giọng khải�hoàn bốn phương. Lòng chạnh cảm quê-hương nghèo-ngặt, Các nước ngoài bán mắc hàng lên. Ơn cha nghĩa mẹ phải điền, Một ngày hiệp mặt lập nền từ-bi. Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ, Thi hết câu ái-ố gièm-pha. Phương Nam rạng ngọc chói lòa, Lưu-ly hổ-phách mấy tòa đài cung. Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực, Quân cùng Thần náo-nức vui-tươi. Liên-hoa đua nở nụ cười, Rước tôi lương-đống chào người chơn tu. Thế-gian thoát chốn ngục-tù, Thần Tiên hiệp mặt thì cù hóa long. Mất nhìn thấy thần thông biến hóa, Đức Di-Đà hiện chóa hào quang. Việt-Nam là giống Hồng-Bàng, Không còn hung-bạo lăng-loàn như nay. Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn, Dân hai lòng hết bỡn Khùng-Điên. Thiên cơ biến ảo diệu huyền, Hiệp chung tam cõi dưới miền trần ai. Bút nghiên hạ viết bài an lạc, Dẫu cho người dốt nát cũng nghe.
Kìa kìa con cuốc gọi hè, Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp, khoai. Thi tả cảnh Bồng-Lai tại thế, Mãi chần-chờ e trễ kỳ thi. Muôn năm Trời định khắc kỳ, Ngặt ông thất thủ Hạ-bì khó toan. Ta điên thuở Tam-Hoàng Thượng-cổ, Khùng thế thời khùng lộ ngoài da. Ghét dòng con nịnh độc xà, Khinh-khi trung nghĩa hải hà lòng nhơn. Đường gai gốc thiên sơn vạn hải, Dẹp cho rồi tướng bái đàn đăng. Tử-Nha như thể cát-đằng, Tùng quân dựa bóng vui bằng hưng Châu. Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu, Lư-bồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương. Trụ kia bạo-ác phải nhường, Võ-vương hữu đức đường đường trị dân. Thi rõ việc Phong-Thần trở lại, Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương. Con lành mau lại Phật đường, Cùng Thầy cọng hưởng một vườn từ-bi. Chớ nóng-nảy sân-si hư việc, Phải đợi thời vua Kiệt hồi qui. Xử phân những đứa vô nghì, Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc son. Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo, Đừng cho loài cầy cáo lung-lăng. Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng, May nhờ Đại-Thánh phi đằng cức nguy. Lôi-Âm tự đường đi chưa đến, Nên giữa chừng kẻ mến người khinh. Thôi thôi ta để mặc tình, Dầu ai chê nhạo phận mình mình toan.
Hòa-Hảo, thánh tư năm Canh-Thìn
TỪ GIÃ BỔN-ĐẠO KHẮP NƠI
Canh-Thìn năm thiệt là rồng, Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo lai. Thánh năm Kỷ-Mão đến nay, Khắp trong bá-tánh gặp bài sám-kinh. Lời văn tao-nhã hữu tình, Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình sai ta. Xuống trần lão dụng khuyến-ca, Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít bài. Tạm đây ta mắc lui hài, Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui. Không đành tách gót ra đi, Nên dùng lời lẽ từ thì bá gia. Thiên đường lộ ấy nào xa, Muốn cho khỏi khổ xem qua lời truyền. Dấu xưa noi tích Thánh-hiền, Thương trần mượn xác bút liền ra cơ. Thấy trong bá tánh ngẩn-ngơ, Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình. Gẫm trong hai chữ nhục-vinh, Xưa nay thiên hạ kệ kinh ít dùng. Cúi đầu tâu lại cửu trùng, Ngọc-Hoàng ban chiếu lão Khùng giáo-dân. Gái trai lớn nhỏ ân cần, Chùi lau vẹn mặt thì gần Thánh Tiên. Tây-phương đua nở hoa liên, Chờ người hữu phước thiện duyên từ-hòa. Nhắn cùng bổn-đạo gần xa, Ta về âm cảnh thiết-tha tâm tràng. Đời nay hiếm kẻ nghinh-nghang, Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi. Lang tâm trắc-nết vô-nghì, Nhỏ không biết nể kính vì bề trên. Nhỏ to lời lẽ chớ quên, Rán mà nguyện vái đặng đền ơn sâu. Bá gia bá tánh đâu đâu, Xem lời ta chỉ về cầu tại gia. Có đau thì thuốc đó mà, Dòm trong bản chữ về nhà kiếm cây. Nay Thầy chịu lịnh về Tây, Tạm ngưng đạo-đức ít ngày Thầy qua. Dạo trong khắp cõi ta-bà, Nơi nơi chốn chốn quĩ ma rối loàn.
Chữ rằng: �Nhơn thiện vi nan�. Dầu cho tài trí cũng mang nợ nần. Có đeo bịnh tật vào thân, Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô. Thành lòng nước lã nên hồ, Hữu tâm chí đức cam-lồ Phật ban. Cám thương bá-tánh tai nàn, Gặp cơn dông tố nào an lòng nầy. Đờn ta vốn thiệt không dây, Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa. Từ trên tới dưới thuận hòa, Hay hơn châu báu ngọc-ngà giầu sang. Thầy về tâu lại Phật-đàng, Cúi xin nhỏ phước xóm làng bình yên. Giống nòi thiệt cốt Rồng Tiên, Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu. Muốn xem bốn chữ Long-Châu, Bền gan sắt đá sồng-nâu tu trì. Tu hành mà mãi nan nghi, Sợ ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân. Giã từ khắp hết dương-trần, Vân du chốn cũ lưới Thần bủa ra. Non cao nhiều thứ cáo-xà, Trừ loài độc-địa mới là yên thân. Biết sao cho toại lòng dân, Kẻ ưa đạo-đức người cần vinh-hoa. Xót lòng cậy nước ma-ha, Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm. Thân Khùng đêm vắng khóc thầm, Cựa mình cũng nhờ giấc nằm nào an. Từ nay cách biệt xa ngàn, Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy. Giữ chừng đờn nỡ dứt dây, Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa. Tỉnh say trong giấc mộng hoa, Mơ-màng cũng tưởng như ta bên mình. Tuy là hữu ảnh vô hình, Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai. Nghe sơ lời lão cạn bày, Tìm trong não óc gặp ngày bình-an. Kim-lân, xích-phụng lâm nàn,
Cho nên phận lão đâu an thân già. Tảo-tần lo liệu năm ba, Biết sao hiệp mặt lòng già mới nguôi. Mặt ngoài gượng-gạo bải-buôi, Chớ trong tim phổi rối nùi như tơ. Tuồng đời như cá trong lờ, Thọc tay vô bắt còn ngờ kẹt hom. Bao nhiêu tâm não góp tom, Dặn-dò kỹ-lưỡng chăm-nom khắp cùng. Chừng nào tôi được hết khùng, Thì là dân-sự còn dùng làm chi. Bận lòng cạn tỏ vân-vi, Bớ dân hai chữ công-trì sớm khuya. Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa, Được thân sung-sướng vội lìa Tổ-tông. Kể ra lại bắt mủi lòng, Ngán đới mua bưởi bán bòng chát-chua. Cứ theo cái lối a-dua, Dạ toan đốt miễu phá chùa từ-bi. Vàng kho thêm gánh ích gì, Thôi ta than lắm vậy thì thẹn thêm. Bóng trăng cậy đỡ ban đêm, Trầu ăn nhả bã lại têm mời hoài. Khùng ngồi nói chuyện quá dai, Bị lòng bác ái nói hoài chẳng thôi. Thấy đời mặt lọ không bôi, Lại khoe kép giỏi một hồi múa men. Từ nay cửa Khổng gài then, Chờ ta trở lại thì đền hết lu. Thân khùng là phận sĩ-phu, Chẳng ham danh-diệu miễn tu vuông tròn. Khôn thì lánh chốn đau đòn, Dại thì lòn cúi đồ ngon ăn thừa. Hai lòng uốn lưỡi đẩy đưa, Ỷ hơi Hạng-Võ mắc lừa Trương-Lương. Nhớ qua hồi lúc đời Đường, Hiền thần Nhơn-Quí người đương ẩn mình. Cửu-Thiên còn giấu tại dinh, Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày. Giảng kinh đọc tụng chiều mai, Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta.
Xác trần để lại làng Hòa, Lời thăm bốn phía Ngọc-tòa ta lui. Âm dương cách trở xa-xuôi, Nhắn cùng bá tánh chớ nguôi tấc lòng. Phận khùng thân hỡi long đong. Còn lo cho thế hai lòng toan mưu. Ta không gây oán kết cừu, Cớ sao dân-sự phiền ưu nỗi gì? Khoan tràng lịnh mở hội thi, Nên ta xuống bút dạy thì trần-gian. Chớ mình hồn dựa lâm-san, Thảnh-thơi còn xuống thế-gian làm gì? Ước-mơ Thượng-cổ hồi qui, Thế-trần no ấm phú thi an nhàn. Quân-thần, phụ-tử vinh-vang, Hết lo cay đắng, Khùng an phận khùng. Tới đây từ biệt khắp cùng, Thầy lìa khỏi xác Thiên-cung phản hồi. Đục trong cạn tỏ khúc nôi, Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận lòng. Lang tâm như thú thiếu lông, Trớ-trêu cửa miệng trong lòng gươm đao. Ra đời chẳng nệ công lao, Chẳng hờn không giận, hùng-hào còn ganh. Hiệp chung một cội nhánh-nhành, Sum-sê lá thắm chim xanh nối đường. Từ-bi tình ấy đoạn trường, Kể qua tích cũ mà lường lòng đây. Như ai có đọc đoạn trường, Xin đừng chê nhạo rằng Thầy nói nhăng. Muốn sao có phép phi đằng, Cũng như Đại-Thánh, Đường-Tăng thoát nàn. Rưng-ưng nước mắt hai hàng, Lánh nơi cõi tục Phật-đàng lui chơn.
Hòa-Hảo, ngày 1-4 Canh-Thìn (Đức Thầy viết bài nầy vì Ngài tiên-tri rằng Ngài sẽ xa cách bổn-đạo. Quả thật ngày 12-4 Canh-Thìn nhà chức-trách ở Châu-Đốc dời Ngài đi Sa-Đéc).
TẠM NGƯNG LÝ-THUYẾT
Gặp buổi gian-truân tiếng nhộn-nhàng, Cảm-tình bổn-đạo sự riêng than. Thấy an nghỉ xác trong đôi bữa, Đây cũng trải qua hết nhộn-nhàng.
Nhộn-nhàng già trẻ có lòng lo, Mà ấy chẳng qua ngược gió đò. Đậu lại ít ngày chờ lặng sóng, Tớ Thầy sẽ gặp việc hay-ho.
Hòa-Hảo, ngày 1-4 Canh-Thìn (Đức Thầy viết bài nầy vì lúc ấy có nhân-viên sở Mật-thám ở Châu-Đốc đến dòm ngó).
�DIỆU-PHÁP QUANG-MINH� (Khùng Điên tự cảm tác)
Gươm trí-huệ từ-bi chớp nháng, Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn. Ta thừa vưng sắc lịnh Thế-Tôn, Khắp hạ-giái truyền khai đạo-pháp. Tùy phong-hóa dân-sanh phù-hạp, Chấp bút thần tả ít bổn kinh. Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh, Tri phong-võ bất kỳ chuyển kiếp. Giống Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp, Nay đổi đời nhiều sự thấp hèn. Từ ngàn xưa Phật-pháp gài then, Nên ít kẻ tu hành đắc Đạo. Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo, Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng. Hiệu Điên Khùng ban rải dư muôn, Khùng đạo-đức Khùng câu tuyệt-diệu. Khùng toán biết âm-dương kết-liễu, Khùng huyền-cơ Khùng Đạo Thích-Ca. Hươi bút thần dẹp lũ cáo-xà, Loài độc-địa toan trừ dứt nọc. Noi tục cổ xác Khùng để tóc, Phải đua chen tập tánh ông cha.
Mong dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha, Trừ vật-dục trì chơn bất hoại. Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải, Thương hồng-trần mượn xác tái sanh. Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh, Nên cấu xé cùng nhau thảm-não. Sá chi kẻ ngu si khinh-ngạo, Vì trên đời nhiều hạng khác nhau. Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao, Người bội phản ghét-vơ đạo-lý. Khùng cảm mến truyền câu hồi vị, Thà làm hiền mà biết non sông. Điên như ta Điên giống Tiên Rồng, Điên gở ách xích-xiềng thế tục. Chuông Linh-khứu ba hồi giục-thúc, Đờn Lôi-âm khởi điệu êm tai. Con lành duyên khá trở gót hải, Điên quyết chí dắt người lánh tục. Đạo mở cửa bày câu minh mục, Nước ma-ha tưới tắt lòng phàm. Cõi Trung-Ương luân chuyển phương Nam, Mở hội Thánh chọn người trung hiếu. Tử vì nước còn ghi linh miếu, (1) Thác vì đời thanh-sử danh bia. Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia, Tuy thô-kịch mà tâm chánh-trực. Nước văn-minh chê đồ ấy nực, Mảng trau-tria xác thịt thanh bai. Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai, Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh. Chén quỳnh tương gác đều gai ngạnh, Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ. Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ, Bày thi phú than qua thời thế.
(1) Vì để tránh sự khó dễ của người Pháp, Đức Thầy đã có lần đổi lại là: �Tượng Quan Thánh còn ghi linh miếu.�
Xuống dương-gian thân Điên nào nệ, Chốn hồng trần đuốc huệ liền khai. Cho nam-nhi sữa mặt râu mày, Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt. Rán bắt chước những tranh tuấn-kiệt, Gái anh hùng xưa có Trưng-Vương. Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương,(1) Rủa xong hận thù chồng dốc trả. Xưa Châu-Xàng thanh long phải tá, Ngăn Sư-Đồ đặng cứ Ngũ-Viên. Nói cho đời rõ biết Khùng Điên, Điên vận bĩ điên câu ái quốc. Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc, Đem Đạo lành ban rải nơi nơi. Mảng chờ trông bá tánh thảnh-thơi, Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo. Rừng bác-ái điên đời biến ảo, Điên như ta vì Đạo vì dân. Điên tu cầu Quân thánh rải ân, Cho bốn biển dân lành được hưởng. Điên dẹp gác âm thinh sắc tướng. Tầm vô vị kiếm cảnh Niết-Bàn. Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang, Qua Đông-độ vớt người hữu đức. Bể ái hà gươm linh sớm dứt, Lòng bồ-đề sắt đá dám kình. Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh, Noi chí ấy sửa-sang thời-thế.
(1) Câu nầy sau lại, Đức Thầy có sửa như vầy: �Đến đời nay còn phụng lửa hương�.
Trời quá buổi chinh chinh vừa xế, Chờ ít lâu cũng lặn về Tây. Lúc huỳnh-hôn đền trí soi đầy Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc. Điên đàm luận ít câu dốt nát, Mong chị anh bàn-bạc thể-nào? Lời văn thô ý-kiến chẳng cao, Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật. Đường đạo-đức bước đi từ nấc, Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình. Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh, Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt. Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết, Giải thoát rồi pháp bất khả dùng. Nương gia-đình kính trọng cội thung, Lo nưng đỡ trong ngày tuổi hạc, Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác, Ghén rượu nồng chẳng nếm mà say. Say lê-mê lết-mết tối ngày, Say đạo pháp say mùi hương khói. Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi. Bể ái hà rứt bỏ vẹn lau. Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào, Trần-Di ngủ say câu thành tựu. Quyết đưa chúng về nơi non Thứu, Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên. Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền, Câu không ngạnh chờ non phụng gáy. Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái, Quyết đưa người khỏi bến sông mê. Nên phải đành mang lốt làm hề, Mặc bá tánh khen chê cũng phải. Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại, Dốc làm sao rõ mặt tang bồng. Nghiên hai vai gánh nặng non sông, Vớt trăm họ lầm than bể khổ. Ví như loại sanh cầm hồ thố, Còn thương nhau lại huống chi người. Đứa hai lòng sao chẳng hổ ngươi, Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ. Dấu bút tích tuông bay theo gió, Học sách chi phỉ báng ông cha. Thấy dân tình xem giảng ngâm nga, Lão xót dạ đôi lời trần tố. Đức Khồng-Thánh người sanh nước Lỗ, Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ. Sá chi lời đạo-chích tục thô, Kẻ ngu xuẫn khi người nhân đức. Danh hiền-sĩ non sông náo-nức, Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu. Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du, Lúc thập bát chư hầu rối loạn. Bực Thánh-nhơn công lao chẳng chán, Huống chi ta nào dám than-van. Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,
Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết. Coi ai có chứa bàu nhiệt huyết, Dùng đạo mầu cứu vớt sanh-linh. Nếu để chờ sấm nổ vang thinh, E bá tánh ăn-năn đã muộn. Giảng với kệ ra đà bốn cuốn, Ít có người khám rõ cơ huyền. Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên, Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng. Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn, Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng. Để làm cho mích bụng chị Hằng, Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ. Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná, Hiếm bao người được cá quên nôm. Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm, Chăng thèm kể cha hiền trông đợi. Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi, Nỡ phụ-phàng vui Tống-Khâm-Tôn. Xem truyện xưa mà bắt hết hồn, Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ. Gã Tần-Cối ít ai còn lạ, Dụng mưu thần giết nịnh mặt lỳ, Dám thiết kế hại tôi lương-đống. Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng, Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san. Nhờ Tư-Đồ thiết lập Liên-hoàn, Nghiệp nhà Hớn mói an một lúc, Cảnh gian nan như Lưu-Hoàng-Thúc, Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân. Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa ân, Vượt năm ải về thăm huynh trưởng. Kẻ nghỉa khí thiên kim vạn lượng, Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen. Xem tích xưa thẹn với bóng đèn, Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa. Coi sự sống như Tiên nưa nửa, Mê mồi thơm như cá lục-châu. Sao chẳng lo thức tỉnh quày đầu, Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ. Cấp-cô-Độc là nhà bá hộ,
Còn đành lòng bố thí xã thân. Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần, Miễn hiểu đạo hơn là châu báu. Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão, E sau nầy tâm não đoạn trường. Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương, Trời đất xử những người bội phản. Phải chỗi dậy nương dày hùng-tráng. Chữ đại hùng đại lực từ-bi. Vây mới trang quân-tử nam-nhi, Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo. Đời cũng lắm bao người giá áo, Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm. Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm, Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối. Ngọn bút sắt chỉ đường người tối, Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng. Kíp nương theo trực chỉ Tây-phang, Đến cực-lạc tìm nơi an dưỡng. Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng, Lánh ta�bà cõi thế đua chen. Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn, Bạn phản bạn như người Bùi-Kiệm. Trên mặt đất hạng người ấy hiếm, Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng. Nhình Trịnh-Hâm lão bắt mủi lòng, Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh. Viết ít câu cho đời ngâm vịnh, Phận tài sơ xin hãy thứ tha. Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca, Tạm nghiêng bút vẽ tranh thế tạo. Trong bá tánh nhìn xem châu đáo, Chớ vội vàng chê Lão ngu-si. Rạch lang tâm những đứa vô nghì, Nhắc sơ tích người xưa trong sử. Khuyên bá-tánh vạn-dân gìn-giữ, Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình. Đứng trung cang hành thiện truy kinh, Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận. Đã thấy lộ cơ trời báo ứng, Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.
Nợ hồng-trần túc trái tiền khiên, Ta quyết dẹp cứu nàn dương thế, Noi chí đức Hoàng Thang luật chế, Đời không hay những việc xa vời. Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi, Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón. Cảnh thế tạo càng ngày thỏn-mỏn, Giống vi-trùng thường đục phổi tim. Đến cơn đau phương thuốc phải tìm, Gặp Biến-Thuốc, Hoa-Đà lai thế. Kim với cổ nhìn xem thế-hệ, Sợ có ngày hoạch tội ư thiên. Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền, Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn. Ai coi qua xin đừng bỏ lảng, Gắng công-trình vạch lá tìm sâu. Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu, Phải sớm hứng giọt sương Đông-ha. Điên nhơn-nghĩa điên vì đạo cả, Thội chào đời khép cửa buồn duyên. Có thiện-căn sớm lại cửa thiền, Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc.
Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát.
Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn
SA-ĐÉC (Rằm tháng tư năm Canh-Thìn)
Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy, Cửa thiền môn còn hỡi khóa then. Nương xứ xa tạm viết với đèn, Tỏ tâm sự của người liễu Đạo. Sách có chữ thâm ân dục báo, Phận làm người hiếu thảo noi gương. Ấy chẳng qua là đạo luân thường, Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dậm. Non tuyết san rú rừng thâm thẩm, Đem thân phàm tầm đạo siêu sanh. Đến ngày nay còn rạng lấy danh,
Khắp bốn biển dân lành sùng bái. Muốn lập Đạo có câu thành bại, Sự truân chuyên của khách thiền môn. Khắp sáu châu nức tiếng người đồn, Ta chịu khổ khổ cho bá tánh. Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh, Chạm lợi quyền giầu có cạnh tranh. Bước gai chông đường đủ sỏi-sành, Đành tách gót lìa quê hương dã. Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã, Bởi sự thường của bực siêu nhơn. Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn, Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát. Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát, Chẳng nao lòng của đấng từ bi. Vì Thiên-đình chưa mở hội thi, Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng. Kẻ ác đức cho rằng nói túng, Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương. Xe rồ xăng vụt chạy bải-bương, Đent khuấn dạng tình thương náo-nức. Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức, Bởi nạn tai vừa mới vấn-vương. Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương, Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức. Dạy con cả nào đâu than cực, Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai. Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài, Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo. Ông nhồi quả cho người hành Đạo, Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng? Nếu bền lòng vị quả cao thăng, Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật-Thánh. Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh, Phải bền lòng mới rảnh trần ai. Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài, Khó gặp chữ không không mà có. Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ, Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao? Nấu lọc rành mới biết vàng thau, Ai thật tánh ai người giả đạo.
Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo, Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han. Nay thân Thầy cũng đặng bình an, Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng. Tuy xa đường có lời luận-biện, Bời bút thần bay luyện khắp nơi. Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời, Kim mải giũa kim kia mới bén. Người làm phải như tằm trong kén, Có muôn tơ bao bọc ấm thân. Sách có câu �Minh đức tân dân�, Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu. Ta còn thương thương trò liệu-điệu, Chớ cũng mừng được dịp phổ-thộng. Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-tông, Cũng như Phật xuất gia thuở trước. Các bục Thánh châu lưu nhiều nước, Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm. Tuy cơ-hàn mà được danh thơm, Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi. Quá sung-sướng rồi quên đạo ngỡi, Thì khác chi loại thú rừng săng. Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng, Chỉ có biết ngủ ăn ăn ngủ. Khi đói mồi mặt mày sù-sụ, Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn. Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn, Bu nút thịt của loài bạo áo. Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát, Rứt bụi trần mặn lạt thây ai. Chữ Nam-mô trì giái giữ chay, Chay được tánh chay tâm mời quí. Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí, Chỗ tâm thần tọa vị nơi thân. Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần, Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh. Đuốc thiền lâm phương Đông chói ánh, Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê. Dầu cho nay xa cách Sở, Tề, Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh. Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
Đồng bay về Cựu-Lạc một-đàng. Thì thân Thầy hết phải gian-nan, Đâu có chịu mang câu nhạo báng. Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng, Dòm êm trời thì cứ ra tay. Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai, Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão. Lúc Tam-Tạng Tây phương quyết đáo, Bị loài yêu làm bạo lắm phen. Đức từ-bi phải lộ trrắng đen, Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn. Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn, Thấy Đường-tăng thơm thịt muốn ăn. Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng, Với Đại Thánh Tề-Thiên cứu vớt. Lòng sáu chữ nhờ không có ngớt, Thì nạn tai cũng thoát như không. Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông, Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng. Ai mê tâm nghe qua không phủng, Rán suy tầm đặng mở tánh linh. Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh, Thì cũng thấy bổn lai diện mục. Lần thứ chót gọi lời kêu thúc, Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng. Chừng Ơn Trên ban được lục thông, Thầy mới được Tây, Đông du thuyết. Thâu cho được con long ác-nghiệt, Thì khắp nơi mới biết mến yêu. Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu, Chữa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt. Thì đạo hạnh ngày kia mới đắc, Chớ chứa hờn đứa dư � ích chi. Phật tu-hành tai gác mặt lỳ, Chịu cay đắng của người sang-sớt. Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt, Đừng thở-than bận đến lòng ta. Để cho Thầy đi dạo ta-bà, Đạng dạy kẻ đường xa chưa rõ. Nay rừng buội có người mở ngõ, Thì noi theo dấu thỏ đàng dê.
Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê, Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh. Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường ngạnh, Ôi! kể sao cho hết thói đời! Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi, Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống. Suối Tien thanh đổ ra cuồn-cuộn, Tràn ruộng lòng gieo giống mới nên. Kẻ vô tình chẳng có chí bền, Phải sa ngã theo nơi mộng-ảo. Giấc mộng vàng đặng truyền đại đạo, Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê. Mùa nước tràn ngập cả điền đê, Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy. Cuộc gian-nan năm qua đã thấy, Luận việc đời cũng khúc lớn ròng. Khi dậy thì tràn cả bờ sông, Lúc khô hạn đi đồng khao-khát. Biết làm sao lên lưng bạch hạc, Bay cã trời tỏ ý từ-bi. Khắp thế-gian con thảo phục quì, Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế. Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ, Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu. Phải chuyển xây trái đất một bầu, Đạng lừa-lọc con Tiên cháu Phật. Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất, Xử phân người vùng vật thưởng phong. Cho dương-trần rõ luật Thiên-công, Có Địa ngục Thiên-đường hay chẳng. Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng, Suy cho tường rồi sẽ biện minh. Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình, Cho phép Lão tố trần đôi lẽ. Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ, Bao nhiêu tình bác-ái góp tom. Trông bá gia tìm đạo quá mòn, Thôi giã thế ước-mong đời thạnh.
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
Sa-Đéc, đêm rằm tháng 4 Canh-Thìn (Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần tử muốn thử coi, sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng).
ĐẾN LÀNG NHƠN-NGHĨA (Cần-Thơ)
Vui mừng gặp chốn hiền lương, Dốc lòng mở cửa Phật-đường độ dân. Làng Nhơn-Nghĩa để chân đến chốn, Thấy dương-trần trà-trộn tà tâm. Oai Thần đem đạo huyền thâm, Nhiệm-mầu phổ-độ âm-thầm ai hay. Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn, Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng nhau. Lê-dân trămhọ xáo-xào, Rã-rởi phụ tử, máu đào nhuộm tuôn. Thương quá sức bắt cuồng tâm não, Quyết cứu người dùng đạo phổ thông. Ước-mơ dhoc được đại-đồng, Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng thảnh-thơi, Nhìn vạn vật cuộc đời ngao-ngán, Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây. Vẽ hình rồi lại vẽ mây, Vẽ tranh Thiên tạo Bồng-Lai cảnh tình. Lại thêm vẽ phù sanh cõi tạm, Dắt hồn người hắc ám khỏi mang. Cầu cho cuối xóm cùng làng, Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng yên thân.
THI
Luân-thường nặng nợ phải vai mang, Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng. Cớ-gắng tâm trì theo đến chốn, Một ngày vinh-diệu ắt bằng an.
Bằng an bốn biển khỏi đua tranh, Bởi khắp bá gia được chí lành. Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ, Về nơi Tiên cảnh mới nhàn thanh.
Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm, Phật cũ này xưa hãy rán tầm. Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ, Non Thần biến đổi hết rừng lâm.
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay, Mà ruột năm non có các đài. Chờ đợi co hiền noi tục cổ, Tới thời thượng-cổ điểu hòa mai.
Võ-võ đêm thanh nức giọng vàng, Kiểng cây sum MẬU đượm nùi nhang. Phù dung rã gánh thân yên nhã, THẠNH thới gia trung gặp chũ nhàn.
Chử nhàn vô sự mới nên Tiên, Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền. Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi, Lánh đời tực lụy rút tiền khiên.
Tiền khiên kiếp tạo bởi trần thân, Đạo diệu giồi-trau lập chí cần. Luyệnt tánh, trau tâm cho sạch-sẽ, Rứt rồi nợ thế khỏi ưu-phiền.
Ư-phiền thường sự chốn ta-bà, Phật cảnh mau về ắt lánh xa. Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ, Phủi trầnt tìm kiếm chữ ma-ha.
Ma-ha mùi ngọt mật cùng đa! Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà. Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo, Nào khờn dạ ái của thiền-gia.
Thiền-gia chí cả dốc hành thân, Diêu diệu truyền thi cảm kích thần. Những tưởng thói đời ôi chát lạt! Đạo mầu siêu-việt của thiền lâm.
Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia, Non tuyêt rèn ra bát chánh kìa. Phổ hóa dân lành trong khắp chúng, Hoàn-cầu bốn biển khắp danh bia.
(Mấy bài tứ cú trên đây Đức Thầy trao cho ông Võ-Mậu-Thạnh ở làng Nhơn-Nghĩa).
Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp, Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa. Phật, tiền vận chuyển lọc-lừa, Kiếm con hữu phước mà đưa trở về. Ôi! khổ thảm bốn bề sóng dậy, Dòm lừng trời lửa cháy liên-miên. Tiêu-điều sản-vật điền viên, Thần-thông biến hóa dưới miền Trung-Ương. Ngục môn đầy quỉ vô thường, Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật trừng. Nhìn xa nước mắt rưng rưng, Thương đời mê muội trầm-luân hoài hoài. Tay hạ bút viết bài chung cuộc, Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu. Thân khùng vận bỉ trớ-trêu, Phiêu-lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng. Ai giàu có thung-dung thanh nhã, Ta lo đời sắt đá bền gan. Âu sầu nức giọng riêng than, Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần.
Nhơn-Nghĩa, (Xà No), ngày 29 tháng 4 Canh Thìn
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN (đến Xà-No thăm Đức Thầy) xướng:
Cách mấy tuần dư đã vắng lâu, Mái tây đứng xủ tóc phai màu. Tin thơ mới đặng thông lời ngọc, Ngòi bút khôn dằn ứa hột châu. Khắc lụn bâng-khuâng nơi cửa Khổng, Canh tàn thỏ-thẻ chốn thang lầu. Ngàn trùng nước bích xa xuôi đấy, Cúi kính lời quê gợi mạch sầu.
ĐỨC THẦY họa:
Xuống trần dạy-dỗ cùng đà lâu, Sẵn dịp lìa quê rải đạo mầu. Thong-thả trau-tria đời lựa ngọc, Thảnh-thơi chùi rửa khắp tim châu. Trung-dung khuyên đó noi gương Khổng, Hiếu-hanh day con chớ mến lầu. Tuyệt đích siêu mầu nơi kệ đấy, Phàm-nhơn sớm vội gác cơn sầu.
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng:
Đạo-đức bủa ra khắp cõi trần, Ơn Thầy phổ-hóa nặng ngàn cân. Ngậm vành mong trả ghi muôn thuở, Nhả ngọc làm đền nguyện một thân. Xủ-xếp lũ bàng còn đợi gió, U-ơ bầy bướm hỡi chờ xuân. Hội lành rồng gặp cơn mưa móc, Chi để nho-văn khói lửa Tần.
ĐỨC THẦY họa và cho thêm:
Thương tưởng người mê Lão xuống trần, Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh-Cân. Lòng yêu sanh-chúng luân chuyển kiếp, Dạ ái dương-trần đổi sắc thân. Lèo-lái sẵn rồi còn ngược gió, Cánh trương chưa gặp cuộc phù-vân. Sang hè con cuốc sầu mưa móc, Đoái thấy đời nay học thói Tần.
Vạn lý trường thành khí khẩu chương, Thanh phong tiết-hạnh dĩ luân-thường. Dị nhân tái thế từ-bi thuyết, Đào tị long xà thoát họa ương.
Dăn lòng lục tự mựa đừng sai, Qua bể về quê ngõ chuốc hài. Tiên-cảnh kìa kìa gần lộ vẻ, Chờ người hữu phước đến liên-đài.
Tỏ lời thăm viếng khắp đâu đâu, Bổn-đạo từ nay gác mộng sầu. Vọng bái Thánh Thần đền lộc cả, Trọng quyền chỉ bảo khắp đâu đâu.
Đâu đâu cũng mến tới mà tu, Ngàn dậm xa-xuôi biệt tít mù. Công-cán thăm Thầy không nại khổ, Việc đời lắm kẻ quá là ngu.
Lập thân hành đạo phải truân chuyên, Cức thế Thầy đâu mến bạc tiền. Dặn lòng con hãy bền gan dạ, Sẵn dịp dân lành rõ Phật Tiên.
Phật Tiên thương hết cả nhơn-sanh, Tu tỉnh trì tâm đạo rán hành. Chớ lấy sự sầu gieo não trí, Để Thầy an ổn dẫn quần sanh.
Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời, Một bầu nhiệt huyết chẳng xe lơi. Mến yêu quốc thủy tình đồng chủng, Phải tính cho xong nỗi cuộc đời.
Xà-No, tháng 6 năm Canh-Thìn
Cho ông chín Diệm tức NGUYỄN KỲ-TRÂN ờ làng Định-Yên (Long-xuyên)
Đường xa ngàn dặm cụ sang thăm, Nghe đạo huyền-vi cảm-kích thầm. Cố tưởng ước mơ đời thạnh-trị, Gạn tầm hoài-vọng điệu xa-xăm. Nòi giống Lạc-Hồng nay nẩy-nở, Nam bang vui thú buổi đồng tâm. Ông ơi, hãy rán tìn chơn-lý, Khác thể Thần Tiên thấm nhạc âm.
Nhạc âm Châu-Võ cuộc Phong Thần, Tảo Bắc chin Nam ái nước dân. Treo sợi xích thẳng chờ vận đến, Cột dây ngọc-đái đợi người ân, Thiên-công lắc-lẻo sao lâu quá, Địa-phủ trớ-trêu lấp mắt trần. Tong tổ mở-mang nhờ đức cả, Giống dòng no ấm bớt trần thân.
Đường xa diệu vợi cảm tình ông, Vayậ mới nở-nang giống Lạc-Hồng. Noi chí Thánh-Hiền tìm cội cũ, Theo gương Phật-Tổ thấy non sông. Hồ thiên ngọc ẩn chờ qui kiểng, Trì địa kim sơn đến cõi Bồng. Hãy rán sưu tầm cho rạch lý, Một ngày hòa hiệp hết còn mong.
Còn mong cho gặp hội Mày Rồng, Sắp đền bước đường lắm nẻo chông. Quân tử tùy thời hơi sút bước, Tiểu nhơn ỷ sức mạnh pha xông. Khốn thay dân sự người cao thấp, Đau đớn thân hèn kẻ tiếc công. Dạ luống ai hoài than-thở chút, Lòng lo dương-thế bắt cuồng ngông.
Cuồng ngông cửa Phật quá thêm nồng, Thấy chúng đời nầy những ước mong. Trời định nhơn tâm qui nhứt thồng, Đất xoay vật dụng một nền không. Diệu thâm bát-chánh lời truyền giáo, Xa thẩm tứ-đề tiếng giục ông. Bớ hỡi Lạc-Hồng mau lượng xét, Để chừng phong võ hết chờ trông.
Xà-No, năm Canh-Thìn
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:03 | |
| - 1940C:
Những bài sáng-tác năm Canh-Thìn (1940)
(Phần cuối)
BÁC ÁI ĐẠI ĐỒNG
Nhơn-dân bá-tánh cũng con lành, Thầy dạy cho đều khắp chúng-sanh. May-mắn vận thời đưa đến chốn, Tiên-khiên dẹp gác kiếm con lành. Nhắn cùng bổn-đạo khắp đâu đâu, Vạn vật từ nay luống thảm sầu. Áo-não thương đời đa đói khổ, U-buồn trăm họ vẽ vài câu. Xà-No, năm Canh-Thìn NHẮN NHỦ CÙNG AI
Nhắn nhủ cùng ai một ít lời, Nhờ ơn đưa đẩy tới nhiều nơi (1). Ghét vơ sị khó trau lời hạnh, Hạnh phúc hiền lương tiếng nức trời. Nức trời cảm động cảnh trầm-luân, Đừng để tim gan lửa nó lừng. Hỏa-diệm mảng chờ cây quạt phép, Tâm trần siêu-việt kiến thời hưng. Thời hưng Trời Đất tảo trừng gian, Ủa, ủa thì ra rất muộn-màng. Vui thẩm Tiên Bồng nơi thỏa hiệp, Hoàn-cầu sanh-chúng khỏi lầm than. Xà-No, tháng tư năm Canh-Thìn GIẤY VÀNG
Giấy vàng nay đã giá cao thăng, Bìa trắng lại chê cội bỏ lăn. Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc, Chủ nhà quét tước lượm lăng-xăng. Xà-No, Tháng tư năm Canh-Thìn (Thấy quý ông Năm Hiệu, Năm Chơn, biện Hùm xé giấy vàng mà bỏ bìa trắng nên Đức Thầy tức cảnh làm bài thơ trên đây. Trước khi làm thơ, Ngài cười, nói rằng: "Trắng hay vàng uồng cũng được. Giấy mắc lắm, tại sao mấy ông xé bỏ?"). (1) Nhà chức-trách dời Đức Thầy từ Hòa-Hảo đến Sa-Đéc rồi qua Nhơn-Nghĩa (Cần-Thơ). Cho HƯƠNG-BỘ THẠNH
HƯƠNG đăng thơm nức quá nhẹ nhàng, BỘ đời còn kẹt nỗi hùm lang. THẠNH thay thời sự đưa Khùng đến, Đạo-đức bày ra bủa khắp làng. Hương-bộ mang soi bận áo dà, Đêm ngày tiếp rước khách gần xa. Nhơn dân bá tánh đều trông thấy, Hương-bộ mang soi bận áo dà. Áo dà Hương-bộ bận mang soi, Ai có tức cười hãy đến coi. Dòm riết chú chàng vùng mắc cỡ, Áo dà Hương-bộ bận mang soi. VÕ nghệ ngày xưa của nước nhà, MẬU truyền nên chẳng kiếm cho ra. Luyện tập để dành khi đến việc, THẠNH thời mới được hưởng vinh-hoa. Vinh-hoa cũng phải rán công phu, Tìm kiếm mà coi sấu hóa cù. Kiếp trước ông cha làm ra cả, Ngày sau con cháu rán lo tu. Võng dù sao chẳng rán mà tu, Gặp đặng người xưa phước bổ bù. Bời trước giữ-gìn nề đạo-đức, Bảng vàng chói rạng chẳng hề lu. HƯƠNG đèn cầu nguyện với cha ông, BỘ đào tìm ra nẻo chánh tà. NHƠN ái giữ nền noi lối cũ, NGHĨA hòa huynh-đệ phụng tông gia. Rày mừng gặp đặng lúc ban ân, Duyên trước ngày nay mới có phần, Hãy rán dặn lòng lo trung hiếu, Đền chừng gặp hội có Tiên, Thần. Mùi hương phưởng-phất ghẹo cùng đời, Công-tử sang giầu tiếp cuộc chơi. Trải mặt phong-trần tìm món lạ, Nào dè thâm nhiểm tổn hao hơi. Bo-bo ngày tối lo nồi ống, Chặt-chịa hằng đêm đổi tiếng lời. Những mảng ham vui mang bịnh nghiệt, Gầy mòn thân thề vội buồn ngơi. Chán bịnh hiểm nghèo cậy Phật Tiên, Tâm thành phù hộ hết nạn ghiền. (1) Dưỡng thân đạo-đức giồi linh trí, An thể hiền tu ắt được nguyên. Chặt dạ tinh-thần thêm mập khá, Bền lòng khí-lực tráng nguơn nhiên. Dẹp màm, dẹp chiếu cho tiêu tán, Theo dõi Bồng-Lai lánh cõi thiềng. Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn (1) Ông Hương-bộ Thạnh trước kia ghiền á-phiện rất nặng, sau nhờ Đức Thầy dùng huyền diệu làm cho bỏ được bình nầy. THÂN GÀ (thơ xưa)
Chắt-chiu trong trứng mới nở ra, Dều đâu bay lại xớt con gà. Mẹ kêu túc túc xè cánh đuổi. Chủ nhà tiếc của vỗ tay la. ĐỨC THẦY họa:
Nịnh gian hai dạ chuyện sanh ra, Dòm ngó càng thương hại lũ gà. Trở mặt dòm trời cao tuốt mịt, Ức lòng thiếu cánh chớ nên la. Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn
VIẾNG ĐÊM (Bài nầy là của nội-tổ ông Hương-bộ Thạnh) Trắng thời chịu vẻ ngọt là nêm, Vui dạ chi bằng đọc sách đêm. Học đủ ba dư trời chằng phụ, Đến ngày bẻ đặng quế cùng Thềm. ĐỨC THẦY họa:
Tình thương thăm viếng chật như nêm, Tưởng nhớ lòng ta chớ ở đêm (1). Nhà nước khác chi người thiếu phụ, Ôi thôi! chờ vận bước lên thềm. (1) Lúc đó có nhiều anh em bổn-đạo ở Long-Điền (Long-Xuyên đến tại nhà ông Hương-bộ Thạnh để thăm Đức Thầy và muốn ở lại vài ngày. Đức Thầy làm bài nầy để khuyên anh em về sớm.
Canh trường dạ đoản, kiến canh sơ, Phổ-hóa nhơn-sanh trực thế thờ. Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp, Cấp hồi Nam-Việt tác cuồng thơ. Thôn hành thế lữ ái nhi ca, Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà. Đái bích Lư-Bồng thâm tải hận, Đãi thì Thiên Đinh thiết phong xa. ƯỚC VỌNG NGƯỜI HIỀN (Lúc Đức Thầy ở Rạch So-Đũa (Xà-No) có một nhóm nhân-sĩ đến viếng, Ngài có cho hai bài thơ dưới đây): Cảm tình đồng đạo hiểu tâm không, Cuồng-sĩ bao giờ cũng ngóng trông. Mong ước gặp người tri-kỷ ấy, Toại thay chí cả khách non Bồng. Non Bồng xót chúng xuống trần-gian, Gặp buổi hoàn-cầu nức tiếng than. Ước-vọng người hiền như khát nước, Chóng mau liễu kết dẹp lăng-loàn. Xà-No, năm Canh-Thìn "NANG THƠ CẨM TÚ"
Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắc, Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh lùng. Gẫm xác trần còn cách cội thung, Đâu có được giũ mùng quạt gió. Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó, Vội bay ngang rồi xớt đi luôn. Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn, Nào phải giống chim muông điểu-thú. Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ, Bời xác phàm hấp thụ đã lâu. Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu, Nên còn ngại bước đường trở gót. Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót, Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ. Con lạc cha con hỡi u-ơ, Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến. Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến, Đặng chung cùng môt tiệc quỳnh-tương. Vây ngô-đồng hứng vẻ đượm suong, Cho chim phụng mặc tình sè múa. Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa, Cả trời Nam lưới bủa thiên-la. Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na, Ta thỏa chí hô-hào trung nghĩa. Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa, Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho. Tuy ngày nay chưa được ấm no, Sau được dựa nơi non nhược thủy. Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ, Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn. Cho người lành dạ át bắt nôn, Cúi đầu trước qui-y Phật-Pháp. Quản chi thân bị mưa, nắng táp, Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai. Vẽ cho dân lập chí râu mày, Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược. Thân nặng-nề như chim ô-thước, Quyết làm xong cầu đá sông Ngân. Nên chẳng màng báu ngọc châu trân, Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế. Đứng anh hùng dựng nên thời-thế, Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen. Vội đem lòng cượng lý ghét-ghen, Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyền. Chốn âm-ty ngưu dầu, mã diện, Đang trông ngày tới số bắt hồn. Cõi âm thầm bịnh sái dịch ôn, Chờ nãm phước ra tay bẻ họng. CưaTiên-bang hãy còn khóa cổng, Nhà cha xưa cửa đóng then gài. Con nào hiền thì vẹn thảo ngay, Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ. Nhìn gương kiếng sao không biết hổ, Lũ gian thần nào biết Tổ Tông. Làm âu-sầu một góc trời Đông, Bị miệng sói thổi lòng tìm vít. Văn cang-thường đem ra bày trích, Vạch chỉ lời cổ tích người xưa. Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa, Cho lăn-lóc những người mới tỉnh. Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh, Rưới cho trần được tĩnh chút tâm. Mãi để câu ví diệu thậm thâm, Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở. Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở, Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề. Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê, Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt. Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt, Đau chi bằng đau khúc đoạn trường. Ước sao mà thuận gió buồm trương, Đò bất-nhã rước tôi lương đống. Ngày vui tươi cũng đà lố bóng, Cớ sao đời còn mãi say-sưa? Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa, Ngày lập Hội tay vin nhành quế. Trau thân phận rạng danh hiếu đễ, Thỏa dạ Thầy nơi chồn mây rồng. Đừng chi lìa Bắc tổ Nam tông, Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ. Tai nghe chi những câu ái ố, Lòng từ-bi chớ cố lời gièm. Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem, Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục. Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút, Giữ dạ trong đừng đục mới mầu. Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu, Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn. Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng, Trên đài cao gọi các linh hồn. Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn, Sau đác Đạo tiếng đồn bốn biển. Giảng với sấm ra tài sửa kiểng, Kệ cùng xa lựa tuyển con lành. Tuy là ta không thể sanh thành, Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ. Đời phải biết suy kim nghiệm cổ, Thông cơ-đổ dựng nghiệp Thánh Hiền. Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên, Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ. Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ, Có một ngày rớt lốt hổ-han. Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang, Đời cùng đạo bi hoan, ly hiệp. Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp, Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn. Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn, Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế. Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế, Nay được nên vai-vế trưởng thành. Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh, Thân hành đạo vang danh khắp chốn. Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn, Câu quân-thần, phụ-tử rã-rời. Khuyên tu hành hao sức tổn hơi, Chẳng hề mở miệng ra than trách. Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách, Các con lành khá chọn ngay đường. Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương, Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ. Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ, Chữ anh-tài của đấng trung-lương. Phận tu hành đạm bạc ra tương, Miễn cầu được an-khương bốn-bể. Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ, Gọi hồn người hành thiện truy kinh. Ra khuyên dân hẹn có sơn minh, Dìu bá-tánh hứa câu thệ hải Miễn tâm được hư-vô tồn-tại, Sống ở trần hối cải tiền phi. Sống làm sao vẹn chữ tu mi, Sống vùng-vẫy râu-mày nam tử. Tự như nhiên oai-phong thiên tứ, Bút thần-linh mượn mực tay đề. E dương-trần công việc trễ-bê, Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy. Dụng Bá-Nha lên dây dờn khảy, Lo cho đời quên vóc ốm gầy. Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây, Xanh men-mét cũng thây thịt xác. Đi tới đâu giúp người khao-khát, Ngặt giống sâu khó múc mau đầy. Trong suốt ngày làm việc lây-quây, Dùng giấy, mực trưng-bày đạo-đức. Biết bao giờ gái trai tỉnh thức, Trẻ cùng già đồng hiểu Phật-gia. Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca, Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo. Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo, Khói mịt-mù văng xác đầy đường. Cuộc đời nay như ngựa buông cương, Khó dừng lại có cu lụp-hụp, Chim đua bay, cá lại tranh mồi. Ngọn thủy-triều nô nức sụt-sôi, Bầu trái đất một phen luân-chuyển. Ta là kẻ tu hành thiển kiến, Xét thế-trần luận-biện đôi điều. Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu, Muốn giác-tỉnh người mê trở lại. Mong sanh-chúng học đều thông-thái, Rèn tâm lành bác-ái trau-tria. Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya, Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế. Mà nào khác chợ trưa đồ ế, Bán rẽ-rề ít kẻ hỏi mua. Mảng lo theo lối mới tranh-đua, Lại bỏ ngón se-sua học-thức. Thân hèn-yếu lại vô năng-lực, Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân. Miệng toàn lời bắt-chước chúa Tần, Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ. Nhưng mắc phải từ-bi lập chí, Lược cùng thao, thao lược vẹn hai. Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày, Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả. Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã, Hạ bút thần thơ đã đề khai. Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay, Chỉ tước nước vun phân cây quí. Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị, Cận Thầy xưa định việc an dân. Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần, Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt. Luận sơ-sơ cho dân rõ tích, Để chờ ngày hoán võ hô phong. Ban cho đời thoát chữ cay-nồng, Nay giục thúc câu quân tu ký. Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị, Ấy thời lai bình trị muôn dân. Khắp các nơi chư quốc xưng thần, Trong bốn biển chúng dân lạc nghiệp. Theo dõi gót người xưa mới kịp, Vừng mây lành ngũ sắc hào quang. Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang, Miền Nam-địa phân chia đẳng-cấp. Nước cờ mới nay đà khởi sắp, Trổ tài hay biển lấp non dời. Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời, Cả thế-giới mưa hòa gió thuận. Tạo nền móng Thánh-quân đặt vững, Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền. Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên, Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh. Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh, Mong khán-quan vào cửa xem tuồng. Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông, Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh. Đó mới biết ai là Phật Thánh, Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà. Đồng hát câu phụ-tử khải-ca, Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới. NGÂM
Bồ-đào rượu thánh trà tiên Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung.
Nhơn-Nghĩa, ngày 29-5 Canh-Thìn
Hỏi HẰNG-NGA: (Cổ-thi)
Ớ ớ Hằng-Nga dám dỏi đon, Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? Ba mươi mồng một đi đâu vắng? Nay về hỏi đặng mấy thằng con? ĐỨC THẦY họa:
Cõi thế nhìn ta gọi tiếng đon, Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn? Hoàn-cầu luân chuyển nên mờ mắt, Tháng cuối rồi qua cũng một con. Nhơn-Nghĩa, ngày 14 tháng 6 dl, 1940 (Canh-Thìn) Hỏi HẰNG-NGA : (Cổ thi)
Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon, Cớ sao khi khuyết lai khi tròn? Đông qua Dương-cốc bao nhiêu dặm? Tây đến U-đô cách mấy hòn? Uống thuốc trường-sanh đà mấy lượng? Lấy chồng Hậu-Nghệ bấy nhiêu con? Ba mươi mùng một đi đâu vắng? Hay có tư tình với nước non? ĐỨC THẦY họa:
Bời tại vì ai có tiếng đon, Luân luân chuyển chuyển mãi eo tròn. Nam-thiền quê cũ mù xa dặm, Bắc-lý nhà xưa mịt núi hòn. Tiên trưởng đơn hay dầu ức lượng, Phật Thần dược giỏi gắng tìm con. Thương đời phi pháp tuy nhà vắng, Những để đền bù với ước non. Vịnh HẰNG-NGA: (Cổ-thi)
Khen ai cắc cớ bắm trời tây, Tỉnh giấc Hằng-Nga khéo vẽ mày. Một phiến linh-đinh trôi mặt biển, Nửa vừng lửng-đửng dán trên mây. Cá ngờ câu thả tơi-bời lội, Chim tưởng cung trương sập-sận bay. Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bày bốn phương hay. ĐỨC THẦY họa:
Mây hồng năm sắc ở phương tây, Sáng-suốt ô kim bởi vẹn mày. Miểng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy Rồng Mây. Lòng trong Thank kệ tình bơi lội, Dạ sach Phật kinh ý luyện bay. Dầu cho thân mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay. BẠC LIÊU
Diệu-vợi đàng xa đến Bạc-Liêu, Thiền-môn vẹn-vẽ quá tiêu-điều. Bồng-lai tại thế non đường sánh, Đẹp-đẽ cho ta trổi nhạc thiều. Bổn-đạo trông chừng chữ Bạc-Liêu, Cớ sao giành muốn cấm lời diêu. Lưng-chưng bèo giạt thân hành đạo, Bị lũ a-dua cá út thiều. Lá phép xin về tỉnh Bạc-Liêu, Ngụ noi gia-trạch Hội-đồng Điều. Lòng trông Chánh-phủ cho hay chẳng, Khó dễ làm gì việc bấy nhiêu? Nhơn-Nghĩa (Xá-No), lối tháng 6 năm Canh-Thìn "Từ giã làng NHƠN-NGHĨA"
Kể từ mười tám tháng tư, Canh-thìn lưu chữ thiện-từ tới đây. Cho làng Nhơn-Nghĩa biết Thầy, Đem truyền mối đạo thang mây chỉ chừng. Nay vì thời vận chuyển luân, Ở trong cõi tạm đã từng đổi thay. Cầu cho già trẻ gái trai, Rủ nhau niệm Phật liên-đài ắt lên. Thế-gian ngay thảo đáp đền, Ngày sau sẽ được chăn mềm thơm-tho. Tục kêu là rạch Xà-No, Vàm kinh ông Bổn eo-co khúc đường. Ngày Thầy lìa cách quê-hương, Về đây nương ngụ bởi thương dân lành. Phủi trần xóa bỏ lợi danh, Quyết lòng lánh trược tầm thanh mai chiều. Thuở xưa thời buổi Thuấn-Nghiêu, Thái-bình thạnh-trị mến yêu khắn tình. Chớ đâu đồ-thán sanh-linh, Bời nay lỗi đạo kệ kinh ngạo cười. Lo cho mình được đẹp tươi, Phụ-phành nghĩa cả lại cừi Phật Tiên. Luật Trời báo ứng nhãn tiền, Khắp trong thiên-hạ đảo huền từ nay. Ra đi để lại một bài, Cho trong bổn-đạo hôm mai rèn lòng. Băng chừng tách dậm xa trông, Dân-sanh gặp trận trời long hầu kề. Tới lui bùa thuốc bộn-bề, Chơn dời khỏi cửa ra về phủi ơn. Thấy đời tu dối khuyên lơn, Từ đây sửa lại gặp cơn thái-bình. Phật Trời đâu dụng phép linh, Chỉ dùng đạo-đức mặc tình ghét ưa. Nghinh-ngang làm thiếu lấy thừa, Mẹ cha chẳng kể dối lừa ngỗ-ngang. Ngày nay mới đến Phật-đàng, Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh liền. Chậm lành chê Phật ngạo Tiên, Rồi sau tội nghiệp liên-miên tới mình. Dương-trần phú trọng bần khinh, Mãng lo bươi móc cầu vinh thân phàm. Biết sao đầy được túi tham, Không ngăn không đáy càng làm không kiêng. Mỉa-mai đến kẻ tu hiền, Làm cho thỏa chí mới yên giấc nồng. Gẫm đời bụng dạ gai chông, Nên còn khổ sở trời đông túng nghèo. Nhìn dân ruột thắt gan teo, Rán tầm gậy cũ mà leo qua bờ. Nếu không, gặp cảnh bơ-vơ, Thuyền ghe chẳng có bến bờ cũng không. Một mai thấy được non Bồng, Cảnh Tiên rực-rỡ mây rồng đẹp thay. Lại thêm thấy chốn Phật-đài, Không già không bịnh chẳng ngày nào lo. Bây giờ lão lại thúc đò, Đưa qua bến giác dông to tới nhà. Vậy mà còn ghét kệ ca, Không gây tình cảm để già nhọc khuyên. Thương đời ta phải truân-chuyên, Bạc-Liêu xứ ấy ta liền đến nơi. Giã từ bổn-đạo ít lời, Gìn câu nguyện vái chớ lơi nghĩa Thầy. Bớt lòng thương nhớ từ đây, Chảng nên bịn-rịn để Thầy an tâm. Nhó lời dạy dỗ ca ngâm, Di-Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn. Cuộc trần Thầy tỏ thiệt hơn, Mấy người bê-trễ chậm chơn tới Thầy. Nghe theo lời chỉ sau đây, Lãnh bài cầu nguyện về rày mà tu. Dạy dân đầu tóc rối bù, Mà trong bá-tánh hềm-thù chi ta. Trễ chơn Thầy mắc đi xa, Hỏi thăm Hương-bộ vậy mà cách tu. Trăng còn khi tỏ khi lu, Cho nên phận Lão viễn du đổi dời. Càng đi càng biết nhiều nơi, Càng đem chơn-lý tuyệt-vời phổ thông. Người Khùng trí lại cuồng-ngông, Cớ sao thế-cuộc lảu thòng cũng kỳ, Xả thân tầm Đạo vô-vi, Nhiệm-mầu thâm-diệu nan-tri Lão bày. Cầm hương chắp lại hai tay, Đưa lên trên trán nguyện bài qui y. Nguyện rồi xá xuống tức thì, Cắm hương rồi cũng đứng thì thẳng ngay. Đọc qua lời nguyện một bài, Lạy luôn bốn lạy tạ rày tông-gia. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sâp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì phải dặn rành, Bàn thông-thiên cũng thiệt hành như y. Bốn phương đều đọc vậy thì, Cúi đầu bái tạ từ-bi Phật Trời. Sớm chiều bình-đẳng chớ lơi, Thương hành như vậy nhớ lời đừng sai. Có đau xem thuốc ba bài, Tâm thành cầu nguyện ắt nay bịnh lành. Giấy vàng xé nhỏ đành rành, Để trên bàn Phật chí thành uống ngay. Thánh Thần phưởng-phất hồn bay, Ở đâu cũng đến độ rày chúng-sanh. Con rồng mới nửa gút nanh, Mà trong bá-tánh thất thanh hãi-hùng. Chừng nào Thầy lại gia trung, Thì trong bổn-đạo bóng tùng phủ che. Trách dân còn tiếc lụa the, Chẳng làm phước-thiện họa e đến mình. Hết nhục rồi lại đến vinh, Nghe không thì cũng mặc tình thế-gian. Để cho dân-sự luận bàn, Nếu tu thì phải chọn vàng lừa thau. Cá to mà phải ở ao, Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sộng. Một mai dạo được Tây, Đông. Khắp trong thế-giái thỏa lòng ước-mơ. Nuôi tằm ắt được nên tơ, Nếu ta làm phải phước hờ bên lưng. Núi non rừng thẩm cũng từng. Bây giờ phiêu lạc ta mừng khắp nơi. Cho dân đều hiểu cuộc đời, Thiên-cơ để dạ Lão thời yên thân. Đại-đồng chuông đạo bon ngân, Cho người say ngủ tỉnh lần giấc mê. Biêt lo sửa kiểng trồng huê, Thơm-tho gia-trụ danh dề Tổ-tông. Bấy lâu lòng những ước-mong, Cha con hội hiệp thì lòng mới nguôi. Từ nay ai có tới lui, Cúi đầu bái Phật lòng vui tu hành. Xin đừng đeo-đắm lợi-danh, Bỏ trôi đạo-đức hư danh dạy truyền. Mai sau được gặp cõi Tiên, Phỉ tình nguyện ước khỏi phiền lòng ta. Vài lời để lại khuyến ca, Truy phong tách gót đường xa xứ người. Trò buồn Thầy lại tức cười, Đâu đâu bá tánh cũng người Trời sanh. Gần xa Thầy chỉ đành-rành, Quyết tuyển con lành đem lại Phật-gia. Cáo từ làng xóm trẻ già, Chúc cầu lạc nghiệp nhà nhà ấm no. Nhơn-Nghĩa (Xá-No), ngày rằm tháng 6 Canh-Thìn NGAO-NGÁN TÌNH ĐỜI
Ngao-ngán tình đời gẫm cuộc âu, Đông, Tây, Nam, Bắc cũng chung bầu. Vì sao thế sự người sang cả, Phân biệt tước quờn áo rẽ bâu. Rẽ bâu đầu có, có mà chi, Những mãng say sưa mặt cố lý. Múa mỏ khua môi tài biệt thự, Giống nòi Nam-Việt mãi chia ly. Xà-No, năm Canh-Thìn AI NGƯỜI TRI KỶ
Nghĩ việc dời xưa gầm việc nay, Ai người tri kỷ ai là ai? Tái sanh chọn lựa trang hiền thảo, Thức tình tâm trung sẽ vẹn mày. Vẹn mày mới đẹp, đẹp Tiên-gia, Tông-tổ thơm-tho phước hải hà. Tịch mịch huyền sâu ai hiểu đặng, Ắt là thấu tích sĩ cuồng ca. Cuồng ca nẻo Đạo chốn huyền thâm, Nghĩ việc xa xa ruột tím bầm. Đau-đớn cho đời ôi thảm họa, Mạch sầu có miệng lại dường câm. Dường câm khó nói, nói còn e, Thiện tín thờ-ơ nỗi rụt-re. Tiếng động bên tường nghe vẳng vẳng. Sưc hèn như chấu chống ngàn xe. Ngàn xe muốn nghiến chấu còn bay, Nước túng tìm phương chống kẻ tài. Rốt cuộc tương-lai do quyết định, Phương trời xa thẳm nắm quyền oai. Quyền oai thế-hệ cực ta mang, Luân chuyển nhơn-sanh lắm cuộc nàn. Ai hỡi dân lành ta sẽ đợi, Đạo người sửa trọn dứt lầm than. Lầm than khói lửa với binh đao, Âu á lung-tung nhuộm máu đào. Bá tanh say sưa mùi phú-quí, Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao. Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta, Bố thí trì chay giữ giới mà. Phật dạo trau dồi tâm tánh lại, Giác thuyền chuyên chở lúc can qua. Can qua dân chúng chớ buồn lo, Tích đức chờ ta chốn hẹn-hò. Tiên cảnh Phật đài xem rực-rỡ, Hoàn-cầu đến đó ấm cùng no. Cung no bốn biển một cha thôi, Bỏ dức thói hư với tật tồi. Trên có Phật Trời soi việc thế, Dưới đầy cơm áo Lão về ngôi. Nhà thương Chợ-quán, đêm 18-7 Canh-Thìn (1940) SẮP MÀN CẢNH TRÍ
Cảm bấy lòng ta nổi thẹn thuồng, Sắp màn cảnh trí chửa nên khuôn. Chúng-sanh lỡ bước ngơ bờ bến, Nhơn-loại tầm đường ngán buội truông. Tạo hóa khiến đời mang sống khổ, Đất trời xui đạo bị dông luồng. U hoài tưởng lại thân lưu lạc, Rừng thẵm khát-khao kiếm suối nguồn. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn HIẾN THÂN SÃI KHÓ
Bá nhựt thân nầy chịu nạn tai, Cầu xin Phật-Tổ vẽ tuồng hay. Giúp cho Sãi khó qua bờ giác, Trừ lũ yêu ma khuấy chọc Ngài. Nhưng Ngài biến hóa ở Tây-Phương, Còn Sãi dấn thân cảnh đoạn trường. Nam-Hải Quan-Âm bình nước tịnh, Rưới giùm bá tánh bớt tai ương. Phận tớ xác phàm tớ sẽ dưng, Cúng dường cho Phật, Phật đành ưng. Dù cho phải chịu ngàn cay đắng, Cũng nguyện Đạo mầu sẽ chấn-hưng. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn BÓNG HỒNG
Bóng hồng vừa mới thoáng qua, Nhơn-sanh tỉnh giấc tìm nhà Thánh Tiên. Thánh chúa phán ra miền Nam-địa, Mặc cho đời mai-mỉa cười chê. Nhìn dân châu lụy ủ-ê, Biết sao trút hết gánh về ta mang. Mang cho hết tai nàn thế-giới, Kẻ tâm lành bớt đợi chờ trông. Cốt xưa thiệt giống Lạc-Hồng, Trên hòa dưới thuận một lòng mến yêu. Nay hiếm kẻ ỷ nhiều tiền của, Vội làm trò hát múa lăng-xăng. Xâu nhau đặng có tranh ăn, Cùng là giành mặc cho bằng ngoại-bang. Người sao lại bỉ-bàng tôm cá. Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng. Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng. Lại không đủ bữa rối nhăn đời người. Xem thế sự biếng cười biếng khóc, Chẳng rung-rinh quèo móc chi ta. Cười là cười thói ranh ma, Khóc là khóc kẻ chưa ta dỗ-dành. Cơn lỡ-vở buồn tanh chuyện quái, Tim non đời kinh hãi bao phen. Từ xưa ông cống xù quèn, Ngày nay ông bịnh ông ghen việc nhà. Bởi mắc việc đi xa đánh chén, Bà ờ nhà sẽ lén cải trang. Sét tin ruột nọ bàng-hoàng. Gượng say làm tỉnh rỗi nhàn cụng ly. Thấy hiếm kẻ vô nghì lạc Đạo, Đua một lòng làm bạo làm xằng. Ai mà xét dến ăn-năm, Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt giùm. "BÓNG HỒNG" (Tiếp theo bài trước) Mắt thấy đứa vô nghì phát giận, Ngặt nỗi mình còn bận pháp-thân. Chờ con đầy-đủ nghĩa-nhân, Ra tay tế-độ dắt lần về ngôi. Có ngày mở rộng quí-khôi, Non thần vang chuyễn Khùng ngồi xử phân. Huyền cơ máy tạo xoay vần, Đồng về Phật-cảnh mười phần xinh tươi. Thánh Tiên vừa nhích miệng cười, Chúc mừng trần-thế có người chơn tu. Ngày nay vừa lúc trăng thu, Tiết trời ảm đạm mịt-mù gió mây. Mua phùn lát-đát đượm bay, Canh tràng thơ-thẩn than Thầy bơ-vơ. Truân-chuyên Tạo-hóa thơ-ơ, Đưa người lương-thiện lỡ bờ xa quê. Ru con buồn ngủ chưa mê, Tằm đòi lên kén sợ dê phá chuồng. br> Nực cười cho lũ sói muông. Đêm đều cay nghiệt phá tuồng Thuấn-Nghiêu. Đến sau phách lạc hồn xiêu, Rã-rrời thân thể mang nhiều họa-ương. Ai ôi! hãy ngắm cho tường, Nhìn ông tận mặt hùng cường làm chi? (Viết tại nhà thương Chơ-quán, ngày 25-8 Canh-Thìn) PHÒNG VẮNG ĐÊM KHUYA
Vận thời luân chuyển đưa ta tới, Tới chốn nhà thương dưỡng bịnh điên. Lắc-lẻo Hóa-công bày tấn kịch, Chia xa bổn-đạo xuất mộng phiền. Phòng vắng đêm khuya lặng tiếng người, Tâm thần phưởng-phất cảnh vui tươi. Ươc-mơ thế giới lân Hòa-Hảo, Nhà Phật con Tiên hé miệng cười. Lạnh-lùng mây bạc bị luồng dông, Cũng bởi quá yêu giống Lạc-Hồng. Cay đắng siểm gièm thân Lão chịu, Miễn đời thạnh trị hết cuồng ngông. Ta bước, bước đường gặp nẻo chông, Mà khọng nản chí với nao lòng. Dắt-dìu nhơn-loại câu huyền-bí, Bửa đức dạy đời rạng Á-đông. Nhà thương Chợ-quán, đêm 25-8 Canh-Thìn GỞI VỀ CHO BỔN-ĐẠO
Tiếp đặng lời thăm viếng, ngỏ lời cám ơn chung hết thiện-nam tín-nữ trẻ già, cầu chúc cho tất cả được sáng-suốt và hăng-hái bước vững trên đường Đạo-hạnh thanh-cao cửa Phật-pháp.
Ở trên nầy lúc nào Thầy cũng vui-vẻ, rất sung-sướng mà làm hết phận-sự của đạo-đức. Chốn nầy là nơi để cho Thầy tỏ dấu cho hầu hết nhơn-sanh biết rằng chất-hưng Phật-giáo thì phải chịu những sự tang thương biến cải và khuyên tín-đồ chớ buồn lòng lo-lắng, vì Ơn trên định vậy thôi. Rối ít lâu có ngày sum-hiệp chớ chẳng kề chi cả.
Về kinh giảng, tốt hơn kỹ-lưỡng chẳng nên phát lúc nầy. Về thuốc mem cũng tùy theo tâm Đạo mà chỉ vẽ thôi. Thời-kỳ nghiêm trọng, chẳng nên làm theo ý cầu xin của người, tạm ngưng việc đó rồi sẽ cho. Bấy nhiêu lời cho nam-nữ mừng lòng, không cần chi phí phú dông-dài. Ý Thầy tót hơn giữ lấy bề trong, còn bề ngoài thì để cho Thầy yên tịnh thì sẽ có nhiều đều may-mán đưa đến.
Dầu cho xoay chuyển đất trời, Lòng ta chỉ dốc độ đời mà thôi. Cội lành mong đặng đâm chồi, Chặt gìn Phật-đạo đền bồi ơn xưa. Dừng thù kẻ nghịch thêm thừa, Mở lòng hà-hải lọc-lừa đàng ngay. Thế-gian hiếm kẻ Thánh tài, Ra đời phải chịu ít ngày gian-nan. Cổ kim nghiệm biến đừng than, Để cho Trời Phật lo toan việc nầy. Nhà thương Chợ-quán, ngày 25-9 Canh-Thìn NGHĨ NHỮNG NGÀY QUA
Bây giờ ngồi nghĩ những ngày qua, Lòng tớ lạ không, chẳng nhớ nhà. Nhớ cả vạn dân trong bốn biển, Gặp hồi truy lạc Đạo càng xa. Mộng hồn trong bóng vẩn-vơ bay, Sương tỏa trắng trong chói rạng đài. Bóng xế tá-tà về núi ngủ, Trông chừng ông Tạo vẽ tuồng hay. Ông hỡi khách chờ khách sẽ xem, Cảnh cũ ôi thôi quá cũ mèm! Vùng-vẫy đỡ nưng cơn sấm chớp, Vinh-hao phú-quí chẳng mơ thèm. Xúc-động tâm hoài gọi chúng-sanh, Thoát ly cảnh tuc sớm tu hành. Giác thuyền đến bến đưa người thế, Chớ đắm hồng trầm nẻ lợi danh. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn KHÔNG BUỒN NGỦ
Đêm nay lại sao ta không buồn ngủ? Đi, đứng, nằm, ủ-rũ nỗi niềm xa. Hình như say chén rượu quá khề-khà, Nhớ những kẻ bê tha trong ảo mộng. Đường danh-lợi đua chen mùi ong-ỏng, Đâu có màng tiếng vọng của người tu. Cảnh thế-gian dường thể chốn ao tù, Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng. Nơi cửa Thánh, ôi! người càng quạnh vắng, Chốn nhà ma chen-chúc quá thêm đông. Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng, Đưa nhơn-loại đi vào vòng hạnh-phúc. Thương trăm họ ruột tơ thêm vò khúc. Để trí suy giục-thúc cả muôn dân. Bỗng hay đâu nghi-ngút khói vui Tần, Tăng-sĩ phải gắng vùi mơi hắc ám. Nào ai biết tâm ta đời bác lãm, Kiếp người dường chùm gởi bám vào cây. Ở thế-gian ai rõ kẻ chơn Thầy, Dắt sanh-chúng lìa nơi sông mê khổ. Cõi trần-thế biết bao điều ái ố, Hơn cùng thua nhắm mắt cũng ra ma. Chi cho bằng: Lúc sống sanh tìm lấy cuộc nhơn hòa, Chữ thuận thảo hay hơn là tranh-đấu. Thuở ít tuổi ấy là thời thơ ấu, Ơn mẹ cha dạy-dỗ lúc nâng-niu. Lớn lên rồi cần giữ lấy qui điều, Của Phật-Thánh dạy người trung lẫn hiếu. Con nghịch phản đều mang câu đàm tiếu, Giữ sao tròn đạo nghĩa mới khôn ngoan. Lòng sắt son dám sánh nỗi ngàn vàng, Khó mua chuộc những người đầy liêm-sĩ. Đường xa mới rõ biết tài ngựa ký, Lúc nguy nàn tường tận kẻ vô lương. Phụ ông cha làm lắm thói bạo cường, Giành ăn uống ganh em cùng ghét cháu. Trời sanh muỗi là loài thường hút máu, Cũng lắm người mượn kế ấy dung thân. Nên thuở xưa Trời sắp cuộc Phong Thần, Diệt kẻ quấy lọc-lừa dân lương-thiện. Mong Tạo-hóa sắp xong tuồng cổ-điển, Đặng nhơn-sanh kiến cảnh thái bình hòa. Ngỏ lời khuyên nhơn-loại khắp gần xa, Rán tu tỉnh hưởng đời chung cực-lạc. Trên cửa Phật mùi hương thơm bát ngắt, Dưới quân thần phụ tử khải hoàn ca. Ấy là xong bốn biển hiệp một nhà, Không ganh-ghét dứt câu thù hận oán. Trên kẻ trí lấy công-bình phân-đoán, Dưới vạn dân trăm họ được im-lìm. Trẻ với già gìn hai chữ từ-khiêm, Không còn thấy loạn-luân nền cang-kỷ. Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ, Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương. Đạo cha con chặt-chẽ chữ miên trường. Đao chồng vợ thuận-hòa cho đến thác. Biết lẽ nghĩa kính yêu cùng cô bác, Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì. Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri, Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá. Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã, Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan. Trên non tiên văng-vẳng tiếng phụng-hoàng, Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc. Đời xuất Thánh tỏ bày câu tiêm-tất, Rán giữ-gìn kẻo mất giống hiền xưa. Những thói hư tật xấu phải răn chừa, Sau sẽ thấy người xưa tường tận mặt. Ta kể sơ ít điều cho vắn tắt, Ước mong đời xét kỹ đặng tu hành. Phật từ-bi đặng chữ cao thanh, Người lương-thiện hưỡng muôn điều hạnh-phúc. Đến dây ngao-ngán việc trần, Thội dừng bút lại định thần xét suy. Giàu-sang lắm kẻ vô nghì, Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa-nhân. Chẳng kiêng chẳng nễ Phật Thần, Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang. Vì chưng ta mắc tai nàn, Lòng thương trăm họ lỡ-làng từ nay. Cầu Trời, Phật độ tiêu tai, Cứu trong thiên-hạ Đạo khai khắp trời. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn THU ĐÃ CUỐI (Bài nầy không có tựa. Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ) Thu đã cuối bấc lai-rai thổi, Xét cõi lòng chạnh nỗi thương tâm. Canh tràng thổn-thức đứng nằm, Phiền-ba xe ngựa ù-ầm bên tai. Nguồn mây bạc cuốn quay mũi viết, Chấm vào nghiên chi xiết ngại-ngùng. Cũng bung sao lại khuấy bung, Một bầy ngơ-ngác cội tùng còn xa. Thấy Tăng-Sĩ thiệt-thà hữu chí, Vội đem lòng ích-kỷ hại nhân. Ôi, đời yếm cựu nghinh tâu, Rùng-rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên. Làm cho Lão nửa phiền nửa tủi, Ước sao mình như cuội trên trăng. Đặng soi khắp cả dương-trần, Cho người trong tối đặng lằng điển quang. Kể đến lúc băng ngàn đất khách, Đem thân nầy cắt mạch sầu đông. Dầu ai trao đổi lạt nồng, Trao chua chế ngọt tấm lòng chẳng nao. Nhưng nghĩ lại héo xào tim phổi, Biết gốc lành sao cội không gìn. Ngạt-ngào tiếng kệ lời kinh, Ơn nhờ chư Phật oai thinh giáo-truyền. Thân làm Đạo ba giềng năm mối, Dù gặp cơn gió thổi mưa tuôn. Bại rồi thành lại nên tuồng. Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma-ha. Trải một lúc cuồng ba sóng dậy, Chắc nhơn-sanh sẽ thấy việc chi? Trời đà sắp-đặt ly-kỳ, Tới ngày trả quả ầm ỳ biết bao. Thỏa cho kẻ khát-khao đạo-đức, Danh Thánh tài thơm rực non sông. Theo đòi học cổ của ông, Nguồn văn gọi người đồng tâm tu. Lòng đừng chất mối thù chi cả, Lũ bạo tàn tất tả nay mai. Bấy lâu khoe giỏi khoe tài, Trời xanh rọi thấu diệt loài kiêu căng. Lời ta nói có ngằn lắm nhỉ, Đễ đây rồi chúng quỉ hiểu lầm. Điệu đờn trổi khúc huyền thâm, Nhà nghề chọn bản tri âm đâu nào. Giọng Tăng-Sĩ thanh thao như kiểng, Hạn đã lâu sông giếng cạn mòn. Cỏ cây khô héo thon-von, Nay nhờ mưa đượm mà còn khát khao. Nghĩ đến đây gió ào-ào thổi, Ngẩng mình ra nhìn ngọn đông-phong. Khổng-Minh nhờ gió dụng công, Còn ta nhờ được muỗi-mòng bay tan. Khuyên chớ chấp kẻ lòng lang sói, Để đức lành ta rọi khắp nơi. Non sông rực-rỡ chói ngời, Mảnh gương Phật-đạo soi đời cổ kim. Nhơn loại sẽ khỏi chìm bể khổ, Khắp muôn loài nguyện độ siêu-thăng. Kể chi miệng mối lưỡi lằn. Mặc tình thế-sự kêu thằng hay ông. Chớ chia rẽ phải đồng tâm lực, Khua giọng vàng đánh thức bốn phuong. Chấn-hưng Phật-Giáo học-đường, Dưới trên hòa-thuận chọn đường qui nguyên. Tay Tăng-Sĩ gậy thiền quyết nằm, Lần buội bờ xuống thẳm lên đèo. Dầu cho gặp lắm hùm beo, Từ-bi vẫn niệm quyết leo khỏi rừng. Đâu nản chí mà ngừng việc phải, Cuộc tang thương biến cải cảnh trần. Bực tang đeo đắm pháp-thân, Chờ cơn gió tạnh sẽ lần bước ra. Thấy thiện-tín chan hòa giọt lụy, Tâm não nùng chạnh nghĩ xa vời. Chim trời dựng ổ chiều mơi, Bầy con chiu-chít cả đời nhàn thân. Còn một đoạn mưa Tần nắng Sở, Trải qua rồi việc dở hóa hay. Thế-gian sẽ biết Thánh-tài, Bế-bồng con dại hát bài khải-ca. Ai mà được trông qua cảnh ấy, Cội phúc nhà tạo lấy mà nhờ. Thương đời tả ít lời thơ, Nẻo tu dân-sự còn chờ dịp nao? Phận Tăng-Sĩ nài hao gió bụi, Miễn xổ lồng tháo củi ta-bà. Theo đòi gương-phẩm Thích-Ca, Dốc đem tâm chí tầm ra Đạo mầu. Cả vạn vật chung bầu thế-giái, Vì oán thù dựng bãi chiến-trường. Cũng đồng xưng bá xưng vương, Tranh quyền đoạt lợi đởm đương xé giành. Ta nguyện một lời hành chánh đạo, Chẳng phải người thông thạo hoàn toàn. Nhưng mà gắng chí kêu vang, Người ôi! thức tỉnh lánh nàn tu thân. Nguồn bạch thủy trong ngần mát-mẻ, Múc rưới vào độ kẻ chúng-sinh. Thần-thông phép Phật muôn nghìn, Cội lành nắm chặt ắt mình thảnh-thơ. Nay Tăng-Sĩ có lời kêu gọi, Dụng tinh-thần chống-chỏi quỉ tà. Đừng cho chúng đến gần ta, Nhơn-sanh còn hỡi ngà-ngà giấc say. Phật, Tiên, Thánh muôn loài vạn-vật, Cũng ở trong quả đất dựng gầy. Siêu-thăng nhẹ tách đường mây. Trầm-luân oan-nghiệt càng gây thêm hoài. Ta chí dốc tầm đài-nguyệt-kiến, Cho dương-trầng rọi chuyện sai lầm. Định thần dẹp hết tà tâm, Huờn lai bổn-tánh Thần khâm quỉ nhường. Bỏ cái tánh tự cường tự trọng, Gẫm cuộc đời cái bóng theo hình. Tu hành đâu kể nhục vinh, Ta làm bổn-phận ngạo khinh mặc đời. Đầu ngường-vọng đất trời minh chứng, Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời. Đôi đểu hòa-nhã nơi nơi, Thân nầy mới chịu ngồi ngơi thạch-bàn. Lòng trẻ thảo biết đoàn biết kết, Phí xác phàm mê mệt đâu nài. Băng rừng vẹt phá gốc gai, Đưa người lương-thiện đến ngay Niết-Bàn. Thấy biểu khổ đâu an lòng đặng, Xông thuyền ra cứu vớt sanh-linh. Miễn cho bá tánh vẹn mình, Hết cơn bịnh tật hết tin đạo tà. Cúi nhờ nước ma-ha mát mẻ, Xin Phật ban cho kẻ khát lòng. Chim khôn thì uống nước trong, Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ. Để ma bịnh theo hờ bén gót, Thần chết kia ôm hoát bên mình. Đạo lành sao lại chẳng tin, Dầu cho thông thái cũng gìn cốt xưa. Nở đâu lại vày bừa đồng loại, Cũng gốc Ngài Thượng-Đế xuống trần. Quày đầu nghe tiếng chuông ngân, Trở về nơi cũ cho gần Phật, Tiên. Thấy sanh-chúng quá ghiền cảnh tục, Nên nhiều lần giục thúc muôn dân. Bạch trinh giữ lấy nghĩa-nhân, Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần. Vượt cảnh khổ muôn phần u-ám, Ganh, ghét, hờn, thì thảm muôn bề. Khuyên trong nam nữ chợ quê, Cúi đầu thiện-niệm trông về Tây-Phương. NGÂM:
Tu cho kẻ bạo khâm-nhường, Đẹp lòng cha mẹ Cửu-Huyền chờ trông. "ĐÊM NGỒI MỘT MÌNH" (tiếp theo bài trước) Riêng phòng vắng-vẻ một mình ta, Đèn điện bật lên ánh sáng lòa. Trí não nghĩ suy tuồng biến đổi, Tâm hồn liệu lượng cảnh thay nhà. Tai nghe bốn phía xe cùng ngựa, Mắt thấy chung quanh vách trắng ngà. Cô độc nhưng lòng nô-nức mãi, Cố tình kinh-nghiệm những ngày qua. Nhà thương Chợ-quán, ngày 30-9 Canh-Thìn MƯỜI BỐN THÁNG MƯỜI
Cảnh trời mây mịt vẽ lăng-quằng, Mười bốn tháng mười lại khuất trăng. Ngẫm việc thiên-cơ càng biến chuyển, Xem chừng địa-lý quá xung xăng. Tơ lòng vương-vấn đời thêm bận, Tâm dạ ai-hoài cuộc nhện giăng. Biết đó biết đây thời với vận, Để ngày kết cuộc khó ăn-năn. Nhà thương Chợ-quán, ngày 14-10 Canh-Thìn (trước khi Cọng-sản nổi dậy ở Xoài-Hột) "THAN ĐỜI" (Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ) Chạnh lòng nghĩ lại cảnh phiền ba, Nghi-ngút bợn nhơ khói vạy tà. Lăn lác phong-trần dày dạn mặt, Truân chuyên bể ái kiếp mày hoa. Hố sâu chất chứa người bạc-ác, Hang thẳm chôn chồng kẻ thiết tha. Trời đã hoàng hôn mau chợt tỉnh, Tìm đèn Trí-Huệ lánh thân ra. Lánh thân ra khỏi kẻo mang tai, Tầm nẻo cao siêu đến Phật-đài. Bến giác Thần, Tiên mau chực sẵn, Bể mê phàm tục phải cao bay. Nợ duyên đeo-đắm nơi đời tạm, Kiếp số luân-chìm chốn gốc gai. Rày gặp mưa nhuần ân Thánh-đế, Cam-lồ rưới tắt lửa trần-ai. Nhà thương Chợ-quán, ngày 3-12 Canh-Thìn "TRAO LỜI CÙNG ÔNG TÁO" (Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ) Đôi lời cạn hỏi Táo-quân ông, Sắp tính vể chầu Thượng-giới không. Nếu có việc trần tâu thẳng lẽ, Đừng như những kẻ bén hơi đồng, Đêm ngồi nghĩ hỏi thăm ông Táo, Sổ-sách trần ông tính đã xong chưa? Năm Canh-Thìn nhiều trận gió mưa, Chơ nhơn-loại trăm cay cùng ngàn đắng. Còn một tháng trông coi dài dặn, Chắc hăm-ba theo lệ cũng chầu Trời. Đêm nay trò chuyện với tôi chơi, Thêm dặn trước ít lời ông xin nhớ. Táo cười rằng! có chi nhắn-nhờ? Mới hôm nay sao lại gấp quá chừng? Có điều chi lo liệu bâng khuâng, Mà vội-vã dặn-dò tôi sớm vậy? Sãi cả cười, vuốt-ve tấm đãy: Sợ ngày về ông bận lắm chè xôi. Của chúng-sanh làm lễ vãng hồi, E quên mất những lời tôi gởi-gấm. Nên tính trước trao tờ cáo-thẩm, Cuộc trần-gian đà trải một năm qua, Luôn từ ngày Tăng-Sĩ xa nhà, Đều uất-kết tâu qua cùng Thượng-Đế: Ngày vâng chỉ đáo-lai trần-thế, Cõi Trung-Ương nhằm đất nước Việt-Nam. Chọn một chàng tuổi trẻ tục-phàm, Mượn tay gã.tờ hoa Thần hạ bút. Khuyên bá-tánh tầm Tiên rời tục, Chỉ máy Trời bày tỏ việc về sau. Gái cùng trai già trẻ bước vào, Đường trí-huệ qui-y gìn Đạo-pháp. Thần cũng chẳng say mê chùa tháp, Chẳng tham tiền, tham vật, món chi chi. Hơn năm dư quyết chí duy trì, Truyền sanh-chúng phải kính thờ Trời, Phật. Cũng lắm kẻ phàm phu sơ thất, Vội trêu đùa lũ quỉ ngạo đoàn ma. Lúc ăn-năn sửa tánh rất thật-thà, Còn lắm kẻ nghinh-nganh theo chọc rối. Mượn luật-pháp ẩn trong bóng tối, Mãi làm đều phi nghĩa chuyện bất lương. Dạ hiểm sâu không thước đo lường, Dốc phá hoại đường ngay, bôi lẽ thẳng. Thêm lời tiếng thấp cao nhẹ nặng, Làm cho người tu tỉnh phải xót-xa; Nên hạ thần kính-cẩn tâu qua, Xin Ngọc-Đế phân minh giùm trần-thế. Nay cũng lắm người ưa kinh-kệ, Muốn tu mà gặp lúc quá gay-go. Xác trần còn mắc phải neo đò. Giờ rước khách đã ngưng rồi năm tháng. Thiên-số định cũng chưa quá hạn, Nên phải còn bận mãi ách nàn tai. Vọng Thánh-minh đức rạng khắp nhơn-loài, Ban phước xuống dân lành cho bớt khổ. Gạo lúa kém là đồ sản-thổ, Hàng hóa cao, ấy của ngoại bang vào. Kẻ nghèo hèn thêm nỗi đói, đau, Rất mong-mỏi an-cư cùng lạc nghiệp. Oai trời đất, thế-trần khủng-khiếp, Nhưng ngặt loài thỏ-cáo cứ đua tranh. Lũ sói hùm hươi gút múa nanh, Cho trăm họ hãi-hùng cơn sấm nổ. Thần rán sức ra công khuyến dỗ, Gìn thuần-phong mỹ-tục của Rồng-Tiên. Tập ờ ăn theo nết Thánh-hiền, Lòng tu tỉnh, dòm Phật-Tiên nối chí. Bày tường-tận trước sau chung thỉ, Đời văn-minh vật-chất bỏ gương xưa. Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa, Học thói mới lăng loàn theo sở dục. Khắp thế-giới binh lương cụ túc, Quyết tranh-giành quyền-lợi, xé-xâu nhau. Thấy nhơn-sanh tuôn giọt máu đào, Lòng bác-ái động tình rơi nước mắt. Tiếng ai-bi thở than véo-vắt, Khắp Đông, Tây, Nam, Bắc chịu ưu sầu. Kẻ lương-hiền chờ giọt mưa ngâu, Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi. Ở thị thiềng đua chen xướng-khởi, Nhưng tuồng hư, cho bọn gái lẫn trai. Nào hút thuốc phiện, hội ve chai, Nào trùm-đĩ, ma-cô, nghề hút máu. Ai để mắt xem đời chu đáo, Chẳng khỏi than giùm dân-tộc hư hèn. Diện áo quần, son phấn lấn chen, Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa. Mãng điềm-tô huy-hoàng nhà cửa, Ai khốn-cùng để mặc đất, trời xây. Thấy nhơn gian khuynh dảo tỏ bày, Cho Thương-Đế lãm tuồng trong sanh-chúng. Bấy nhiều đều xét xem nhân-chủng, Táo đệ giùm cho thấu đến Thiên-cung. Còn nhiều đều gớm-ghiếc hãi-hùng, Lấy yếu lược dôi câu mà trần tố. Nay cùng ông hữu duyên tương ngộ, Chúc ông về Thượng-giái được ban khen. Phần Sĩ-Tăng tay trống miệng kèn, Giác thiện-tín chấn-hưng nền Phật-giáo. Nếu chừng nào khai thông đại Đạo, Đuốc từ-bi rọi khắp cả nhơn-gian. Bể trầm-luân khô cạn sáu đàng, Tăng-Sĩ mới trở về nơi thanh-tịnh. Nhà thương Chợ-quán, ngày 3 tháng chạp Canh-Thìn "TỰ THÁN"
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ) Vì đâu bốc ngọn lửa Tần, Mà lòng Tăng-Sĩ như dần nát tan. Nghĩ mình chọn kiếp con hoang, Quê hương rày đã dậm tràng sơn-xuyên. Tổ-đường còn một cành huyên, Từ-đường hôm sớm luống phiền chờ trông. Hai em thiểu trí thơ-đồng, Chị đà an phận theo chồng đàng xa. Từ mang một tấm áo dà, Mùi thiển đã thắm ơn nhà lợt phai. Sống sanh ra phận râu mày, Một đời một Đạo đến ngày chung thân. Tuy là xa cách cố nhân, Nơi đời triếu mến sớm gần cửa không. Từ-bi buộc chặt cõi lòng, Còn ơn cúc-dục để hòng mai sau. Bể trần sóng cuộn lao-xao, Xông thuyền bát-nhã lướt vào một phen. Quản chi lực kém tài hèn, Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu. Soi từ đài các xá lểu, Cho người trụy-lạc biết đều nghĩa-nhân. Tài tai hai chữ cân phân, Trời ban họa phước một lần cho ta. Mắt đen thấy mắt trắng lòa, Phật ma, ma Phật mới ra vở tuồng. Trời già tay khéo, khéo luôn, Sắp chi chua ngọt pha buồn lẫn vui? Năm canh luống những sụt-sùi, Cám trong nhân-chủng lắm người dở-dang. Sầu chung ta cất tiếng than, Phù-sinh kiếp có đoạn tràng thì thôi. Bon bon chuông giục mấy hồi, Rầm rầm sấm nổ trên đồi xa xa. Đầu canh tiếng động bên nhà, Chờ ba canh một thì gà gáy tan. Ngày xuân cách cội xa làng, Người quê Quán-Chợ như thoàn linh-đinh. Vừa cơn xóng gió bất bình, Số trời đã định phận mình biết sao. Ngày xưa mấy bực yên-hào, Vào sanh ra tử dạ nào trách than. Thân nầy đã ngấm trầm nhang. Vui câu bác-ái bền gan đợi chờm, Đêm khuya vằng lặng như tờ, Vài hành nhủ hết chớ ngơ-ngẩn lòng. Gắng tình đừng lắm ngóng trông. Hung-tinh sao ấy trời Đông lờ-mờ. Hềm vì mắc lá thiên-thơ, Đôi đều ghi chép cõi bờ chưa xong. Thôi thì lòng dặn lấy lòng, Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa. Đêm khuya lác-đác sương sa, Phòng khuya lạnh-lẽo có ta với phòng. Gật-gù suy cuộc hưng vong, Quyết xoay máy tạo gánh gồng chưa yên. Trí thần nhớ đến tiếng quyên, Gọi hồn cố-quốc sầu riêng một mình. Trầm-ngâm vẻ mặt làm thinh, Tựa mình bên gối giấc quỳnh đã say. Mơ tiên hồn muốn vụt bay, Nhà thương Chợ-quán, tháng chạp năm Canh-Thìn "TỈNH BẠN TRẦN GIAN"
Nghiệp chướng lăng-loàn hại xác thân, Chuông lành buông tiếng vọng bon ngân. Cương-thường gánh nặng trai gìn trọn, Tơ-tóc vai quằn gái vẹn phân. Nợ nước văn-chương toan báo đáp, Ơn nhà đạo-đức quyết đền ân. Khuyên nguồi trí-sĩ mau mau tỉnh, Giấc mộng nam-kha chốn thế-trần. Thế-trần tạm giả gạt đời ta, Lướt khỏi sông mê khỏi ái hà. Nhân-ngã, ngã-nhân đừng cách biệt, Sắc không, không sắc chớ lìa xa. Diệu-huyền chơn lý noi đường sáng, Ảo-thuật tà-tâm kiếm nẻo ra. Lóng-lánh gương xưa lời Phật dạy, Hồng-trần ái-dục giết tài hoa. Tài-hoa cho lắm, lắm nàn tai, Trụy-lạc phong-trần chốn gốc gai. Nếu đã tỉnh tâm tầm lẽ thẳng, Cũng nên rèn tánh gặp đàng ngay. Sân-si phỏng có điều thêm bận, Nhẫn-nhịn ắt không chuyện keó dài. Tiếng gọi hồn mê hồn được giác, Phải toan sắm-sửa rứt trần-ai. Trần-ai chỉ có thú phong-lưu, Tranh-dấu thành ra mãi oán cừ. Chung cuộc chỉ mang câu thất vọng, Xong đời ghi chất mối sầu ưu. Cổ kim máy tạo nhiều huyền-bí, Lão ấu xây vần lắm mẹo mưu. Cũng chẳng cướp xong quyền võ-trụ, Mà còn đeo đắm thú phong-lưu. Phong-lưu nào phải gọi người ngoan, Sa ngã biến nên kẻ khốn nàn. Ngày đến, đến đi đâu kéo ngược, Năm về, về mãi chẳng ngừng ngang. Tuổi gia thân yếu đa sầu cảm, Tóc bạc mình ve lắm rộn-ràng. Biết được trần-gian là mộng huyễn, Tử thần sửa soạn kéo vào quan. Kéo vào quan-quách biết bao người, Cảnh sống sum-vầy phỏng mấy mươi? Lắm lúc đua chen vui lẫn giận, Nhiều khi vùng-vẫy khóc pha cười. Tuồng đời chuốt-ngót cho xong tiếng, Cuộc thế trau-giồi mượn tấc hơi. Nín thở nằm ngay không cựa quậy, Xót thương con trẻ khóc đôi lời. Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên, Ma lớn chay to phí lắm tiền. Tưởng vậy xác thân đa hạnh-phúc, Nào hay hồn-phách lắm oan-khiên. Thiên-đường siêu-thoát thời thong-thả, Địa-ngục trầm-luân ắt đảo-điên. Nên chọn một nơi thanh-tịnh ấy, Rứt trần bất nhiễm mới là yên. Mới là yên-ổn lánh trần-gian, Chí nguyên tiêu-diêu cảnh Phật-đàng. Diêu-pháp chuyển thân vô sự thế, Huyền-thông hoá kiếp chẳng lo toan. Tâm linh mắt thánh xem ba cõi, Tánh hiền tai thần lóng bốn phang. Phổ-tế chúng-sanh qua bể khổ, Di-Đà miệng niệm lánh trần-gian. Trần-gian khói lửa với đao binh, Chư Phật sớm bày phép hiển-linh. Cức khổ nam-mô vô lượng phước, Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh. Sóng xao dương-thế nhiều cay đắng, Gió cuốn trần-gian nỗi bất bình. Tín-nữ thiện-nam gìn mối đạo, Dầu cho lăn-lóc rán kiên-trinh. Kiên-trinh mà xhịu lúc nàn tai, Dẫu có gian-nan dạ chớ nài. Vàng đá bao phen cơn nước lửa, Chì thau lắm chuyện lúc non hài. Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp, Gắng chí trông mong bữa tiệc khai. Thiên địa tuần-huờn gom một mối, Phàm-trần vẹn kiếp kiến Bồng-Lai. Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn Đức Thầy gởi ông MƯỜI (chú Đức Ông)
Ngày Tết đến, nương mực viết thay lời, trước kính bái tông đường, sau chúc mừng ông bà đặng muôn điều hạnh-phúc. Sau có hai bài thơ, xin ông xem chơi cho rõ điều tâm sự: Xuân đến chúc mừng tuổi thúc ông, Đàng xa không thể viếng môn tông. Câu thơ cao hứng thay bầu rượu, Bài phú vui mừng thế chậu bông. Đạo-đức gắng công nên cách mặ, Văn-chương rén chí chẳng phai lòng. Ơn nhà tạm gác sau này trả, Xin bớt đau lòng bớt ngóng trông. Trước đã đem thân hiến Phật đài, Chắc rằng sẽ được buổi trùng lai. Ra công khai-hóa vì nhân-chủng, Nhọc sức mở-mang bởi cốt-hài. Sanh đấng nam-nhi toan xử thế, Sống làm hiền-triết nghĩa gồm hai. Thuận hòa trăm họ đời an-lạc, Chừng ấy xe tiên thế dép giày. Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn MƯỢN CÂY ĐUỐC HUỆ
Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp, Quân-thần nhĩa trong hữu thiên niên. Vận phải bỉ trăm điều chua chát, Thời đáo lai muôn chuyện ngọt ngon. Nghĩ cuộc đời mà chan-chứa nỗi hao mòn, Xem cảnh thế luống xót-xa niềm chích mát. Đời nầy như thế người kia cũng thế, Làm sao mà tránh khỏi việc lầm than. Sống tranh đua khi chết cũng xương tàn, Cho nên: Mượn đuốc huệ đánh tan mùi tục lụy. Buồn vơi mượn bút tay đề, Tu hành tâm đạo dựa kề Tiên-bang. Nào nào trần thế có sang, Sắp đều đau khổ nghèo nàn hỡi ai! Thảm trong thế sự ngày nay, Lắm điều lao-lý quá dài gian-nan. Một tay tá quốc an bang, Nước nhà vững đặt Hớn-đàng hiển vinh. Bây giờ phải mượn kệ kinh, Dắt-dìu trần-thế mặc tình nghe không. Kêu thằng hay gọi là ông, Cũng không có muốn ai hòng tôn-ti. Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn (Bài trên đây Đức Thầy gởi về nhà, một lượt với 2 bài thơ gởi ông Mười). NHỔ BÀN THÔNG-THIÊN (vì sợ liên-can vụ "Đạo tường" ờ Tân-Châu, thuộc tình Châu-Đốc) Đạo ắ xảy ra rát thảm phiền, Xô ngang ít bữa rồi trồng lại, Thần Thánh đi xa khó rước liền. Hòa-Hảo, hạ tuần tháng Giêng năm Canh-Thìn -- Hết những bài sáng tác năm Canh-Thìn --
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:09 | |
| - 1941:
Những bài sáng-tác năm Tân-Tỵ (1941)
NĂM TÂN-TỴ (1941)
Chúc xuân ông Thầy thuốc TRẦN-VĂN-TÂM làm việc tại Nhà thương Chợ-Quán
Tràng pháo vang-vầy đến rước xuân, Chúc ông năm mới chữ vui mừng. Trăm điều phúc-lộc vừa đem lại, Muôn chuyện nhàn-cư đến chẳng ngưng. Tộc-họ cùng chung gìn nghiệp cũ, Gia-đình sum-hợp giữ thường-luân. Rạng vẻ non sông tiếng lẫy-lừng.
Nhà thương Chợ-quán, Tết năm Tân-Tỵ (1941)
"NGÀY TẾT"
Tháng lụng ngày qua năm đã tàn, Trẻ già nô-nức đón xuân sang. Chờ coi năm mới hên hay chẳng? Chóng đạt công-danh kẻo muộn-màng.
Ngày tết đến rồi các bạn ơi, Tổ-Tiên truyền lại mấy ngàn đời; Ước ao xuân mới bằng xuân cũ, Thanh-bạch tâm hồn cuộc thảnh-thơi.
Nầy hỡi chúa xuân ta rán chờ, Khỏi ngày thảm lệ buổi nguy cơ. Pháo tan xác pháo rền rang nhỉ, Khói bốc đường mây án mịt-mờ.
Thời giờ kinh hãi sẽ đi qua, Thế-giới trì xong cuộc thái hòa. Chừng ấy chúa xuân thêm tráng lệ, Huy-hoàng tục cổ của ông cha.
Thiên hạ đua nhau rằng mới mới, Lòng ta nào thấy mới chi đâu. Lao xao phố chợ hoành đôi tấm, Rộn-rịp cửa nhà liễn mấy câu. Lũ trẻ cười reo pha tiếng pháo, Cụ già đùa chuyện lẫn năm châu. Nào dè xuân ấy là xuân gượng, Của buổi loan-ly gợi thảm sầu.
Lốp-bốp pháo chi nổ quá ồn, Khắp cùng thành-thị khắp hương-thôn. Người dư của-cải tiêu xa-xỉ, Kẻ thiếu tiền-nong nợ mắc dồn. Ba bữa cờ trương còn hớn-hở, Bầy ngày nêu hạ hết lo nôn. Thì ra năm mới như năm cũ, Cảnh khó dân đen vẫn tự tồn.
(Chép theo bản chánh do Đức Ông giữ)
CẢNH XUÂN
Kiểng vật khoe màu đua sắc tươi, Cành hoa hé nở tợ như cười. Xuân về cảnh dẹp càng thêm vẻ, Dám hỏi Đông-Hoàng tuổi mấy mươi?
Nhà thương Chợ-Quán, Tết năm Tân-Tỵ.
ĐI TRÌNH-BÁO (Lúc Đức Thầy về Bạc-liêu ở nhà ông Võ-văn Giỏi thì nhà cầm quyền buộc phải đi trình diện tại bót cò mỗi tuần một lần, vào ngày thứ hai).
Việc chi mà phải đi trình báo? Mỗi tháng bốn kỳ nhọc cẳng ông. Đợi máy huyền-cơ xây đến mức, Tính xong cuộc thế lại non Bồng.
Thứ hai bừng sáng mưa tầm-tã, Linh đứng ngoài đường giuc-gĩa ông. Kiếp khách trần-gian vay lắm nợ, Để đền trọn nghĩa với non sông.
Người cười, người nhạo bảo ông điên, Ông chẳng giận ai, cũng chẳng phiền. Chỉ tiếc trần-gian đùa quá vội, Chưa tường điên tục hay điên tiên.
Bạc-liêu, 6-6 Tân-Tỵ (30-6-41)
TẠM NGƯNG LÝ-LẼ (vì nhà cầm quyền ở Bạc-liêu buộc ràng, dòm ngó)
Gặp lúc truân chuyên lắm buộc ràng, Cảm tình bổn-đạo tiếng riêng than. Tạm ngưng lý-lẽ trong cơn túng, Xin chớ ưu-sầu cuộc dở-dang.
Nghĩ cuộc đời lương tâm càng cố-gắng, Lòng ta sao rối-rắm cuộc tằm-tơ. Vì đâu nên nỗi hẫng-hờ, Với người tha-thiết đợi chờ ngoài song!
Bạc-liêu, 20-6 Tân-Tỵ (14-7-41)
VỊNH QUẠT MÁY
Khoa-học đời nay thật khéo cho, Bày ra cái máy chạy vo-vo. Tranh quyền tạo-hóa nồng thay lạnh, Đông-Á lần hồi phụ quạt mo.
Có tiền mua lấy cũng nên cho, Tủ sắt còn đầy còn gió vo. Nhưng ngặt khan dầu e hết điện, Trở về lối cũ lượm cau mo.
Cau mo chừng ấy đắt tiền cho, Ngóng cổ thêm dài hút gió vo. Chủ khách ngẩn-ngơ cơn nóng bức, Thôi thì "toa mỏa" tạm dùng mo.
Bạc-liêu, 21-6 Tân-Tỵ (15-7-41)
VỊNH CON BEO ĐÁ (để chưng tại nhà ông Võ-văn-Giỏi ở Bạcliêu)
Beo ơi, beo hỡi là beo! Gần cọp sao mi lại giống mèo? Ngóng cổ chờ ai đem thịt tới? Hay chờ gạt chó cướp đàn cheo?
Bạc-liêu, 1-6 nhuần Tân-Tỵ (24-7-41)
Cho ông Hạnh, rể của ông VÕ-VĂN-GIỎI (ở Bạc-Liêu)
Đó rán tầm đường đến cảnh Tiên, Thú vui phong nguyệt lắm ưu phiền. Lòng phàm rửa sạch niềm nhân ngã, Phước Phật trau-giồi kết thiện-duyên.
Thiện-duyên ấy cũng tại nơi ta, Hộ niệm oai linh Đức Phật-Đà. Sớm, tối, đi, nằm, y chánh-pháp, Thầy nguyền dắt đến cảnh Long-Hoa.
Bạc-liêu, 1-6 nhuần Tân-Tỵ (24-7-41)
VÌ SANH-CHÚNG
Vì nghiệp trần mê hay bởi ai? Tâm, can, tì, phế, thận đau hoài (1) Hay vì sanh-chúng còn lao-lý, Nguyện uống cho đời chén thuốc cay.
Bạc-liêu, 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29-7-41)
(1) Lúc Đức Thầy còn ở Bạc-Liêu, Ngài thường đau ốm không thuốc nào trị được.
NGŨ NGÔN CÁCH CÚ
Đã trải hai năm dư, Mang một túi đồ-thư. Lòng hằng mong phổ-hóa, Dụng đủ cách thanh từ.
Muốn khai kinh thả cá, Trời chưa cho thỏa dạ. Gặp buổi quá thâm u, Đời đầy câu nhơn-ngã.
Sóng bể cuộn phương Đông, Chừng nào mới cho xong. Câu ấy nhơn-dân hỏi, Phải chờ lịnh Thiên-công.
Tại sao ta lại đau? Quyết trị liệu phương nào? Bịnh ni là tâm bịnh, Dễ hết được đi sao?
Bạc-liêu, ngày 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29-7-41)
MONG CHỜ
Tây-Phương chư Phật cám ta-bà, Chuyển pháp độ đời khỏi đọa-sa. Mong-mỏi chúng-sanh đồng mật niệm, Vọng cầu thế-giới dứt can qua.
Can-qua binh lửa sát sanh-linh, Khẩn bái Quan-Âm trút tịnh bình. Giọt nước nhành dương mau tưới tắt, Cứu đời an lạc hết giao chinh.
Lòng người muốn khỏi họa đao-binh, Nhưng Phật chờ oai sắc Ngọc-đình. Trị tội cho xong loài ác-bạo, Công-đồng thường phạt hết đao-binh.
Bạc-liêu, ngày 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29-7-41)
NIỆM DI-ĐÀ
Mắt nhìn trần đỏ niệm Di-Đà, Nguyện vái thân nầy khỏi đọa sa. Muôn đạo hồng quang oai-đức Phật, Soi đường minh-thiện đến Long-Hoa.
Bạc-liêu, ngày 10-6 nhuần Tân-Tỵ (2-8-41) (Bài trên đây Đức Thầy viết ra để cho anh em tín-đồ nguyện trước khi niệm Phật).
Cho ông VÕ-VĂN-GIỎI ở Bạc-Liêu
Hào-quang chư Phật rọi mười phương, Đạo-pháp xem qua chớ gọi thường. Chuyên-chú nghĩ suy từ nét dấu, Cố công gìn-giữ tánh thuần lương.
Bạc-liêu, 20-7 Tân-Tỵ (11-9-41) (Bài nầy cũng có ở trong quyển Khuyết-Thiện)
GIẢI-THOÁT CỬU-HUYỀN
Rán tu đắc đạo cứu cửu-huyền, Thoát chốn mê-đồ đến cảnh Tiên. Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo, Cho ta hình vóc học cơ-huyền.
Bạc-liêu, 21-6 nhuần Tân-Tỵ (11-10-41)
TỘI VỚI THIÊN-HOÀNG
Chúng-sanh đắc tội vời Thiên-Hoàng, Đạo-lý chẳng gìn ở dọc ngang. Nên mới gây ra trường thảm họa, Làm cho lê-thứ chịu lầm than.
Bạc-liêu, 22-6 Tân-Tỵ (10-12-41)
MẤY ĐOẠN TƠ LÒNG
Theo lời ông Hương-bộ Thạnh thì trong khi Đức Thầy ở Bạc-liêu, ông ở Nhơn-Nghĩa (Cần-thơ) hăng-hái đi cổ-động cho người ta vào Đạo. Khi được lịnh Đức Thầy bảo đừng đi hoạt-động nữa, ông buồn lắm. Nhơn thấy người tá-điền đem cho một trái sầu riêng, ông tức cảnh làm bài thi dưới đây rồi cho bà Hương-bộ đem đến Đức Thầy.
Đức Thầy trả lại ông bài thơ: "Trái sầu riêng" và có cho thêm bài Mấy đoạn tơ lòng như dưới đây:
TRÁI SẦU RIÊNG
Thân hình gai gốc nghĩ càng thương, Thật trái sầu riêng báu của vườn. Lắm kẻ chê bai rằng nhám-nhúa, Nhiều người yêu chuộng tại mùi hương.
Giúp đời trải dạ cơn khao-khát, Đỡ chủ tàng che lúc nắng sương. Trinh bạch tấm lòng trời đất rõ, Đinh-ninh dạ trắng núi sông tường.
MẤY ĐOẠN TƠ LÒNG
Mấy đoạn tơ lòng mấy đoạn đau, Muôn dân ngơ-ngẩn đợi mưa dào. Thiết-tha thiện-tín câu cầu nguyện, Vui-đẹp dạ Thầy luống ước-ao. Lòng người muốn vậy trời chưa vậy, Cuộc thế xây vần đất phụ sao? Nhẫn nhẫn cho rồi câu bĩ cực, Thời lai sẽ được cảnh tiêu dao.
Bạc-liêu, năm 1941 Theo lời ông Hương-bộ thì Đức Thầy còn gởi thêm 3 bài tứ cú đăng nơi trang 363 mà Đức Thầy đã cho rể ông Võ-văn-Giỏi ở Bạc-liêu.
TU TƯỞNG
Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, Lúc bắt hồn mắc việc cũng đi.
Chắp tay niệm Phật Di-Đà, Lòng ta ta biết ai mà mặc ai.
Cuốn sổ bình sanh công với tội, Chờ nơi thẩm phán sẽ cung khai.
Thất đức thì ma quỉ rối loàn, Tu đức thì ma quỉ tiêu tan.
Phải rán tu đặng mà chết, Chớ đừng để chết mà chẳng có tu.
Bạc-liêu, 22 tháng 10 Tân-Tỵ
VỌNG BẮC HÒA NAM
Lâm san rày đã rời ra, Dạo trong lê-thứ vậy mà xét-soi. Bàn với luận đặng coi chơn-lý, Lậu cơ trời thiên-ý bày ra. Thấy đời ta cũng thiết-tha, Chiên-tranh ngoại-quốc hằng hà lụy rơi. Bị danh-lợi xe lơi tình nghĩa, Mới trranh-giành xoi xỉa cùng nhau. Phơi thây mà chẳng núng-nao, Tranh cùng với đoạt chừng nào mới thôi. Hạ-nguơn lao khổ lắm ôi! Tu sau mới được qua đồi chông gai. Lo bổn-phận thảo ngay trọn vẹn, Chừng lập đời không thẹn tấm thân. Câu quân lý tứ ân chạm dạ, Nếu chẳng gìn phải đọa đừng than. Chừng nào tiếng sấm nổ vang, Thất-sơn lộ vẻ đền vàng báu thay. Chọn bến nước rủi may trong đục, Nếu chần-chờ lục đục trễ chơn. Yêu đời ta dạy làm ơn, Lời ta khuyên nhủ như đờn Bá-Nha. Trong bổn-đạo gần xa ghi nhớ, Phải thi hành phận tớ cho xong. Để sau đến việc long-đong, Xác thân khó thấy Mây Rồng hội kia. Chữ trung-tín chạm bia trước mộ, Người phượng thờ đặng độ chúng-sanh. Trả nợ thế nghĩa-ân trọn vẹn, Cảnh non Bồng kỳ hẹn ngày kia. Chúng ham làm chức nắc-nia, Ngày sau như thể vô đìa quên nôm. Nay nhằm lúc đêm hôm vắng-vẻ, Muốn tu hành lặng-lẽ mà nghe. Thử yên lặng để ve nó gáy, Gáy ít điều rõ máy thiên-cơ. Người khôn nghe nói ngẩn-ngơ, Người ngu nghe nói mãi ngờ Khùng Điên. Kẻ chẳng mến tình riêng hay ghét, Ta tu hành hay mét làm chi. Hổ thay cho bực tu-mi, Thân mình chẳng vẹn vậy thì không lo. Để đến việc dang lưng mà chịu, Ai biết điều sớm liệu cho xong. Miệng sự thế nhiều ông kiêu-hãnh, Ta dạy đời chẳng rảnh mà tranh. Gió đưa nhằm lúc đêm thanh, Lời ta dạy-dỗ như nhành ghẹo chim. Gắng công mài sắt nên kim, Những câu huyền-bí rán tìm cho ra. Viết ít câu ngâm-nga thời-thế, Ta khuyên đời như kế Trương-Lương. Tấm thân nào nại gió-sương, Thương-yêu lê-thứ lo lường năm canh. Nếu ai muốn luận-tranh đạo-đức, Ta cho đời một bức thi ca. Hết gần rồi lại nói xa, Nói cho sanh chúng rõ mà người chi. Dân với chúng còn nghi mãi mãi, Đạo tu hành nói phải mà nghe. Ngàn năm đạo-lý vắng hoe, Bị ngươi Thần-Tú bày chè cùng xôi. Kinh với sấm ngoài môi nó tụng, Đao suy-tồi bại-lụn vì ai. Đem nguồn chơn-lý bằng nay, Ta thương dân chúng lạc-loài giống xưa. Mặc ai ý ai ghét ưa, ưa ghét, Định tâm thần xem xét thể nao. Dạy đời chẳng nệ công lao, Khuyên người danh-lợi chó rào làm chi. Ngày sau đến việc sầu bi, Thương đời ta mới làm thi khuyên đời. Còn ẩn-nhẫn đợi thời chưa đến, Nên phải làm kẻ mến người khinh.
Bạc-liêu, năm Tân-Tỵ
Ông PHAN-CHÂU-BÁ (Long-Xuyên) hỏi:
Tang bồng nợ ấy sao xong? Chí dốc từ-bi cổi tấc lòng. Nhơn đạo còn mang chưa xử trọn, Nghĩ sao giải-thoát nợ tang bồng?
ĐỨC THẦY đáp lại:
Đành ràng nợ thế trả chưa xong, Mà biết ăn năn sửa lấy lòng. Niệm chữ Di-Đà tan chướng nghiệp, Thuyền từ Thầy rước lại non Bồng.
Non Bồng Tiên Phật xót nhân-sinh, Trí-huệ trau giồi khán kệ-kinh, An phận hơn bề danh lợi tạm, Tề gia trung hiếu vẹn thân mình.
Bạc-liêu, năm Tân-Tỵ
BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ CỬU-HUYỀN
Đầu cúi lạy Cửu-Huyền Thất-Tổ, Ngõ đáp ơn báo-bổ sanh thành. Ngay con qui Phật tu hành, Cửu-Huyền Thất-Tổ lòng lành chứng tri. Lời Phật dạy từ-bi bác-ái, Dạ nhơn-từ quảng đại mở-mang. Hiếu-trung con giữ vẹn toàn, Từ rày chẳng dám lăng-loàn như xưa. Sau hưởng đặng phước thừa của Phật, Hồn nhẹ-nhàng vượt khỏi tử-sanh. Nguyện đem công quả tu hành, Cứu trong tông-tổ vãng-sanh liên-dài. Về Phật-quốc ngày ngày an lạc, Cả giống-dòng giải-thoát luân-trầm. Rồi đem đạo-pháp huyền-thâm, Độ trong sanh-chúng hết lầm hết mê. Cả vạn-vật đồng về Phật cảnh, Chẳng luyến trần ảo-ảnh gạt lường. Nguyệt cầu chư Phật mười phương, Niết-Bàn tịch tịch là đường vô-sanh.
(Bài nầy Đức Thầy viết tại Bạcliêu lối cuối năm Tân-Tỵ, nhưng vì thấy nó hơi dài nên Đức Thấy viết bài khác chỉ có 12 câu cho anh em bổn-đạo học mau thuộc. Ấy là bài "Cúi kình dưng hương trước cửa-huyền")
NÉM CẤP-BẰNG
Lấy cái cấp-bằng ném xuống sông, Thôi, thôi! tôi cũng mét-xì (1) ông. Tuồng đời gẫm lại nơ quô rẻn (2). Xăng phú ba manh (3) trở lại đồng!
Bạc-liêu, năm1941
(1) Merci (2) Ne vaut rien. (3) S'on f. . . pas mal,
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:12 | |
| - 1942:
Những bài sáng-tác năm Nhâm-Ngũ (1942)
NĂM NHÂM-NGŨ (1942)
CHO THẦY ĐỘI GIÀU (1)
Chúc thầy trong năm mới, Đạo tâm càng phấn khởi. Mở rộng của từ-bi, Giúp người đang mong đợi.
Mong đợi được tu-hành, Thầy nên giảng việc lành. Cho người mê giác-ngộ, Là phổ-tế chúng-sanh.
Chúng-sanh đang thảm-đạm, Bởi tội ác gây ra. Bần-tăng thường khẩn-nguyện, Mong trăm họ thái hòa.
Bạc-liêu, Tết năm Nhâm-Ngũ (1942)
Cho ông TRẦN-QUANG-HẠNH
TRẦN tâm rứt sạch cuộc mê-si, QUAN-sát Đạo mầu nẻo ẩn vi. HẠNH đức vun bồi thêm rạng tỏ, Thoát phàm theo dõi gót Tư-Bi.
Bạc-liêu, Tết nguyên-đán năm Nhâm-Ngũ (1942)
(1) Thầy đội Giàu là nhân-viên sở Mật-Thám Bạc-liêu và thuộc phái Tịnh-Độ Cư-Sĩ.
THỨC TỈNH MỘT NỮ TÍN-ĐỒ Ở BẠC-LIÊU
Trót đã qui-y giữa Phật-đài, Nguyện rằng đệ-tử dứt trần ai. Mong nhờ đuốc huệ soi đường tối, Chớ nhiễm nghiệp phiền chớ đắm say.
Đắm say một phút cội lành xa, Sớm tỉnh trì tâm chống quỉ tà. Dõi gót theo Thầy nương Phật cảnh, Vui vầy xem hội, hội Long-Hoa.
Long-Hoa Tiên-Phật đáo ta-bà, Lừa lọc con lành diệt quỉ ma. Nếu mải mê-mang mùi tục lụy, Linh hồn chìm đắm chốn nê-hà.
Lòng Thầy chua xót ruột Thầy đau, Nghe được lời khuyên tỉnh với nào ! Kiếm huệ dứt xong rồi quả báo, Lo gì cửa Phật chẳng chen vào.
Cuộc trần, ôi quá khổ ! Trường đỏ đen là chổ nhuốc-nhơ. Biết bao người vì nó phải bơ-vơ, Sự nghiệp hết gia-đình tan nát. Sớm tỉnh ngộ lên đường giải-thoát, Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân. Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần, Thân-trí cực, nợ lần-khân chẳng dứt.
Ghi cho bằng:Qui y thì khá làm y, Giữ lòng thanh-tịnh từ-bi giúp đời.
Bạc-liêu, 6-3 Nhâm-Ngũ (1942)
Cho ông Cò tàu Hảo (Sàigòn)
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng. Tam qui ngũ giái lòng hằng gìn theo, Chúc ông thoàn nhã vững lèo. Qua bờ giác ngạn sớm treo gương mầu. Nơi cõi tạm sông sầu bể khổ, Làng ngựa xe cám dỗ tao-nhân. Gây ra lắm nợ phong-trần, Luân-hồi sáu nẻo khôn lần bước ra. Rày tỉnh ngộ ái hà quyết dứt, Đèn đạo tâm sáng rực soi đường. Cầu tu cho đạt ngũ-hương, Hươi gươm trí-huệ Ma-vương hãi-hùng. Làm cho chúng phục tùng chơn-lý, Trong sắc-thân giám-thị lục căn. Đừng cho chúng tính lăng-quằng, Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần. Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái, Cội sân-si cũng phải tào trừ. Đem về giác tánh chơn-như, Làm tôi Phật-Tổ chí thành chí chơn. Dầu mác phải mưa đơn gió kép, Cũng chiên trì mà dẹp gai chông. Ngày nào đắc được lục thông, Vớt hồn cha mẹ, tổ-tông bảy đời. Về Cưc-Lạc thảnh-thơi an dưỡng, Ấy là ngày ban thưởng công tu. Chúc cho đó vẹt mây mù, Vững-vàng bất thối công-phu vuông tròn. Đến ngày biển cạn non mòn, Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn. Nay ông nhập tự làm tăng, Trước sau tuy khác thiện-căn vẫn đồng. Lắng tai nghe được tin hồng, Tờ hoa ít chữ gọi lòng chia vui.
Bạc-liêu, ngày 25-4 Nhâm-Ngũ (1942)
CẢM TÁC
(Đức Thầy cảm tác viết bài nầy vì ông Nguyên-văn-Ngọ ở Bạcliêu nghi Ngài cản-trở việc ông ta muốn kết nghĩa thông-gia với ông ký Giỏi ở Bạc-liêu)
Ngồi mà ngẫm nghĩ chuyện xưa, Thánh-Hiền chẳng biết sao vừa lòng dân. Đem thân mà rứt nợ trần, Nợ trần đau khéo chần ngần chun ra. Nhìn đời lụy muốn ứa sa, Thế-gian đui tối nửa ma nửa người. Muốn reo vang một tiếng cười, Nhưng lòng chẳng nỡ khi người mê-si. Đâu thông pháp-luật từ-bi, Gán cho Tăng-Sĩ làm chi sự đời. .Con thuyền bát-nhã xa khơi, Dầu cho sóng gió rã-rời cũng cam. Thường nhơn là tánh tục phàm, Biết đâu tội phước luân-đàm tương lai. Tình trường đầy dẫy thi hài, Lạ gì chẳng biết những bài học xưa. Thánh-nhơn còn hỡi răn chừa, Huống chi Phật-đạo tam thừa qui mô. Sa-môn chí những tín-đồ, Mai-vong cản mối tựa hồ gớm-ghê. Một là gây nghiệp trần-mê, Hai là tan-nát phu-thê một đời. Lòng ta trong sạch người ơi, Người sao chẳng xét luận lời phi ngôn. Cờ nguy ngựa chốt đánh dồn, Trước sau cũng chữ vong-tồn an nguy. Tỏ lời tâm huyết lâm ly, Mong ai ngộ nhận quyết-nghi duyên trần. Trách lầm mang nghiệp gào thân, Chỉn e vai-vác Thánh Thần chép biên. Phận ta nối gót Phật Tiên, Ngợi khen cũng mặc điên huyền cũng hay. Thương đời phải chịu đắng cay, Thân danh chẳng quản, chôn-gai chí sờn. Ít ai nghe rõ giọng đờn, Của người rứt bỏ oán ơn cõi phàm. Ngày hằng giái ngũ qui tam, Sắc không, không sắc tánh phàm đổi thay. Chẳng qua tai-ách những ngày, Nên phần xác-thịt đọa đày tràn-gian. Lìa quê tách bước xa ngàn,
Gia-đình chẳng đoái còn màng chi ai. Dốc tâm nguyện đến Phật-đài, Hiệp cùng chư Phật độ rày chúng-sinh.
Nện vang một tiếng chuông linh, Cho người trong mộng biện minh lẽ nào. Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng-ão, Cuộc truy-hoan thường giết khách tài-hoa. Nghe chuông linh sớm dứt bể ái-hà, Kẻo vật-dục cuốn lôi vào bể-khổ.
Ví dầu lập chữ công-danh, Đến khi rốt cuộc cũng đành thả trôi. Lá úa vàng nó rụng người ôi! Muôn năm mới có một thời, Tới kỳ hiệp(1) hội Phật Trời định phân. Con lành đều đủ nghĩa-nhân, Cha là Phật, Thánh, Tiên, Thần phước dư. Có đâu như thể bây chừ, Loạn-luân cang-kỷ bất từ, bất lương. Thân ta dầu lắm đoạn trường, Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn-loài. Ngày kia thỏa chí làm trai, Tiếng lành như thể hương bay nực-nồng. Bây giờ bờ bến chưa xong, Dở-dang thời vận mà lòng chẳng nao. Ngàn xưa mấy bực anh hào, Nằm gai nếm mật dạ nào trách than. Trượng-phu chí cả dọc-ngang, Dạo trong bốn biển mới trang Thánh-Hiền. Làm cho kẻ bạo ngửa-nghiêng. Đạo lành mở cửa nơi miền Nam-bang. Tiếng dờn hò liếu cống xang, Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh.
(1)Có chỗ chép: Tới kỳ lập hội...
Thu còn gặp lúc trăng thanh, Vang lời thỏ-thẻ như cành ghẹo chim. Thấy trong người ấy thanh-liêm, Tỏ bày tâm sự rán tìm cho ra. Bồi-hồi chợt tỉnh Nam-kha, Đường danh nẻo lợi xem ra ích gì. Trời thu ảm đạm ai-bi, Nạn tai vương-vấn bời vì Trời riêng. Thảm thương lê-thứ ưu phiền, Chớ lòng đâu có lo riêng nỗi mình. Mờ mờ tỏ tỏ xinh xinh, Đêm nay bóng nguyệt như rình xem ta. Miệng cười ta bảo Hằng Nga, Làm ơn rọi chữ "San-Hà" nời đâu, Gẫm trong cõi tạm nhiệm mầu, Ngặt mang xác thịt khó hầu cao bay. Chữ tài thường gặp chữ tai, Trớ-trêu tạo-hóa ông bày trò chua. Ta nào xó muốn tranh đua, Vun trồng cội phúc chờ mùa trổ bông. Bay mùi thơm cả Tây-Đông, Bắc, Nam nhơn-vật Lạc-Hồng thảnh-thơi. Tâm hồn hoài cảm nơi nơi, Gẫm người hữu chí đôi lời cám ơn.
Bạc-liêu, ngày 29 tháng 6 Nhâm-Ngũ (1942)
BUỒN
Buồn thay chư Phật ẩn non đoài, Buồn biết bao giờ trở gót hài. Buồn thấy chúng-sanh đa xót cảm, Buồn lo trăm họ nghiệp gây hoài.
Buồn đời lưu-lạc trong u tối, Buồn thế gian-nan suốt cả ngày. Buồn buổi cạnh tranh e hoãn đạo, Buồn dân ngu-muội ghét người ngay.
TỦI
Tủi sầu Phật giáo ở non Tần, Tủi phận môn-đồ quá tối-tân. Tủi cuộc hôn-nhơn bày trước Phật, Tủi cơ-nghiệp báu phế nguồn ân. Tủi thay ai tạo trò vô lý, Tủi bấy lấp nguồn đạo hữu chân. Tủi hổ trông nhìn người dối thế, Tủi duyên ác-cảm đắm hồng trần.
Bạc-liêu, ngày 29 tháng 6 Nhâm-Ngũ (1942)
Gởi Bác-Sĩ CAO TRIỀU-LỢI ở Bạc-Liêu (để cảm tạ ông nầy chữa bịnh cho Đức Thầy mà không lấy tiền thuốc)
Gởi ít hàng thăm ông bác-sĩ, Cầu chúc ông phước chỉ được lai tăng. Cuộc thế trần nhiều đoạn khó-khăn, Nên lôi kéo bần-tăng vào cảnh ngộ. Xuống Bạc-liêu chưa bao nhiêu độ. Bỗng ruột tằm quằn-quặn rứt đau. Phần thuong dân phổi héo gan xào, Ngồi, đi, đứng, nằm lăn-lóc mãi. Cũng nhận được trần-hoàn là khổ hải, Dốc tầm đường phóng giải cho thân tâm. Dìu nhơn-sanh khỏi chốn mê lầm, Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới. Hoàn-cảnh chẳng gặp hồi lai thới, Ẩn-nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông. Để đem phô trí óc với gan lòng, Đền-đáp lại cuộc chờ trông ngoài ngõ. Cũng rất thẹn bịnh đau vò-võ, Tuy thuốc dùng chẳng tuyệt được cơn đau. Chớ ơn ông đạu dễ quên nào, Muốn đáp lại lấy chi mà đền đáp? Nếu ông có vui lòng dung-nạp, Tỏ vài hàng gọi đáp ân nhau. Phần phước duyên nguyện để về sau, Khi thong-thả sẽ đến trao lời cảm tạ.
Cám ơn ông tặng thuốc Tây-phương, Khâu giúp bần tăng khúc đoạn trường. Nhưng bịnh trầm-ưu nên chẳng mạnh. Nợ cùng bách tính hỡi còn vương.
Vương-vấn trong vòng cương tỏa ấy, Lòng nào mà chẳng xót thương chung. Bao giờ đạo pháp ta thông đạt, Quyết cứu sanh-linh cảnh não-cũng.
Thôi cũng an lòng nơi số phận, Đợi chờ vận tới sẽ tuông mây. Về trên thượng-giới đền Kim-khuyết, Tâu lại trần-gian cớ sự nầy.
Bạc-liêu, ngày 18-7-42 (Nhâm-Ngũ)
Cho thằng TÂN (Tân là cháu ngoại ông Võ-văn-Giỏi ở Bạcliêu)
Nghe lời ông dạy hỡi con Tân! Học tập muốn nên phải rán cần. Chớ có biếng lười theo lũ trẻ, Ắt đòn bể đít hỡi con Tân!
Con Tân có tật đái dầm, Bời vì biếng nhác mê tâm quen đời Quen đời tuổi đã hai tư, Mà còn chẳng bỏ thói hư thói hèn, Muốn cho cha mẹ ngợi-khen, Từ rày nên rán tập rèn cho siêng. Ông bà xó sẳn của tiền, Lại thường làm ruộng phước-duyên để dành. Lớn lên ăn ờ cao-thanh, Biết yêu, biết quí, điều lành nghe con!
Bạc-liêu, ngày 3-7 Nhâm-Ngũ (14-8-42)
HOÀI CỔ
Bình tâm cất bút tõ lời, Xét xem hai chữ vận thời còn xa. Liếc nhìn thế-giới can qua, Ngàn muôn binh tướng xua ra chiến trường. Dốc lòng tranh bá đồ vương, Đeo câu danh-lợi lắp đường nghĩa-nhân. Gieo điều tàn-khốc cho dận, Khiến lòng Tăng-Sĩ bâng-khuâng lo lường. Tiếc thay đạo-nghĩa luân-thường, Thánh-nhơn đã vạch sẳn đường từ xưa. Để cho quân-tử lọc-lừa, Ở ăn hợp lẽ rán chừa tiểu nhân. Trên vua minh chánh cầm cân, Dưới quan liêm-tiết xửa phân công-bình. Quyền cha quản xuất gia-đình, Dạy con phải phép vẹn gìn hiếu trung. Từ ngày cách mặt cửu-trùng, Thay đời đổi cách bất tùng Thánh-Tiên. Bút lông đẹp với diã nghiên, Thế vào bút sắt vùng viên mực tròn. Lần lần thế đạo suy mòn, Nền xưa nếp cũ, hỡi còn mấy ai. Nên ta thờ vắn than dài, Cúi đầu lạy Phật niệm hoài mấy câu. Dứt trần mang bộ sồng nâu, Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm. Đừng gây chinh-chiến ù ầm. Để gây hạnh-phúc mà tầm Phật Tiên. Ta-bà thật cảnh ưu phiền, Duyên trần cấu kết oan khiên báo đền. Thiều-quang thấm-thoát dường tên, Mắc vòng sanh-tử có bền được đâu. Chi bằng theo học đạo mầu, Sớm qua khổ hải theo hầu Phật Tiên. Tham chi giả tạm của tiền, Như chim vào lưới xích-xiềng trói thân. Tính xong món nợ lần-khân, Thoát vòng cương tỏa pháp-thân nhẹ-nhàng. Tiêu diêu đạo đức luận bàn, Vân du võ-trụ thanh-nhàn biết bao.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)
DỤNG KINH-QUYỀN
Hỡi ôi! Trời đất mấy muôn trùng, Muốn dụng kinh-quyền đạt hiếu trung. Ngặt nỗi thân phàm vương-vấn nạn, Trường thi chưa mởi trống chưa thùng.
Trống chưa thùng sĩ-tử vẫn chờ trông, Mong ngóng mau mau thấy mặt rồng. Bảng-hổ danh đề tên chí-sĩ, Đem tài thao-lược giúp non sông.
Giúp non-sông trong lúc chịu gian-truân, Thảm-lệ tràn tuôn mãi chẳng ngừng. Mịt mịt mờ mờ mưa gió đạn, Phong-trần đày-đọa mấy mươi xuân.
Mấy mươi xuân vắng chúa, trông hoài, Thân gởi nơi người nợ chẳng vay. Trời đất lẽ nào không xét đến, Để cho dân Việt khổ lâu dài.
Khổ lâu dài nay sắp mãn hay chưa, Cầu nguyện Phật trời gội móc mưa. Kíp mở Long-Hoa xây máy tạo, Cho dân Hồng-Lạc thọ ân thừa.
Thọ ân thừa mà được cảnh nhàn an, Trăm họ đầu đê trước Thánh-Hoàng. Nguyện giữ cang-thường gìn Phật-đạo, Giao-hòa mãi mãi với lân-bang.
Với lân bang sẽ dứt mối thâm thù, Trên dưới một lòng chí nguyện tu. Chẳng dám trễ-bê đường đạo-đức, Đặng mong chẳng vướng cảnh ao-tù.
Cảnh ao-tù giờ vẫn phải còn mang, Nặng triệu trên đầu héo ruột gan. Chí dốc thoái-ly vòng xích tỏa, Cầu trên Thánh-chúa vững ngai vàng.
Chúa vững ngai vàng sãi mới yên, Rời ngay cảnh tục trở về tiên. Chẳng còn tham-luyến nơi trần-thế, Vì cả thế-gian hết não phiền.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)
RỨT CÁI NGU ĐẦN
Vướng nghiệp trần-hoàn bởi quả nhân, Gây ra kiếp số chịu phong-trần. Nay nhờ đuốc huệ soi đường tối, Đặng rứt cái ngu lẫn cái đần.
Muốn bán cái ngu lẫn cái đần, Ngu đần cả nước lẫn cùng dân. Sớm lo lòn cúi chiều ăn ngủ, Nào biết liệu toan gỡ nợ-nần.
Nợ-nần tiên-tổ gây nên, Con cháu ngày nay phải báo đền, Đành thế, nhưng vừa lời với vốn, Lẽ gì chịu dại trả ngông-nghênh?
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)
THẬP NGHỊ NHƠN-DUYÊN
Nhơn duyên thứ nhứt phát khời từ màn vô-minh mà che pấp bản ngã (linh-hồn) nên làm cho người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp, chịu nẻo luân hồi thống khổ. Đay là 12 duyên sanh: Vô-minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh-sắc, danh-sắc sanh lục-nhập, lục-nhập sanh xúc-động, xúc-động sanh thọ-cảm, thọ-cảm sanh ái, ái sanh bảo-thủ, bảo-thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão-tử.
Đó là 12 duyên-sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia không có dứt; cái vô-minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô-thỉ. Có mê dốt ta mới hành-động rồi hành-động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết), ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh-sắc, còn ta là loài hữu-tình cái biết ấy nên có xác-thịt và linh-hồn, danh-sắc. Xác thịt và linh-hồn có thì phải có 6 căn: nhản, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhiễm với 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục-nhập. Có lục-nhập mới có tiếp-xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc-động, rồi từ chỗ tiếp-xúc mới thọ hưởng của tiền-trần nên gọi là thọ-cảm. Có thọ-cảm, thọ hưởng của tiền-trần rồi mới có cái ưa thích, quyến luyến, thâm tình nên gọi là ái.
Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó, thì ta phải gắng công giữ-gìn chặt-chịa nên gọi la bảo-thủ; mà gìn-giữ chặt chịa thì mới có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc ấy mới đầu thai trời lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn vật hễ sanh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa) làm nên nào là tứ thời. cảm-mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất là phải chết nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp-nhơn của già chết, ấy là tại cái vô-minh mà ra tất cả.
MÔN HOÀN DIỆT
Nếu ta tìm con dường bát chánh đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn-giận, chẳng dạ ghét-ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điếu phiền-não và để bụng tham-lam ích-kỷ, gây mối thiện-duyên, lần lần trí-huệ mở-mang, cõi lòng sáng-suốt, thì nàm vô-minh sẽ bị diệt mất.
Vô-minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh-sắc diệt; danh-sắc diệt thì lục-nhập diệt; lục nhập diệt thì xúc-động diệt; xúc-động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo-thủ diệt; bảo-thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tử diệt. Ấy là giải-thoát vậy.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)
ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH
Một ông cha ở trong gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy. Tại sao? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũng đồng là con đều do huyết nhục sanh ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con , lo-lắng cho có gia-cư, nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất cho con. Vậy thì tình thương vẫn đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi đứa. Tại sao vậy? Vì đứa nào hiếu thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ hiểu, thì ông cha âu yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để bảo tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những điều điếm-nhục gia môn! Những đứa ấy, ông cho có thể nén lòng mà rước lấy sự chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm saomà ban thưởng đặng.
Cũng mường tượng như trên, hỡi các người! Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối vói các hạng con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng sanh, dầu kẻ ngu người trí, yêu tất cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau. nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ chúng-sanh, nhưng mà sự gần gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tuỳ theo mỗi kẻ tín-đồ. Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm kiếm đạo mầu, quí trộng chuyện lành thì Phật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nào quí trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn những kẻ tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thế nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng.
Bạc-liêu, ngày 24-8 Nhâm-Ngũ (1942)
LỜI KHUYÊN BỒN-ĐẠO
Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ, thường bị những chướng-nghiệp nhiều đời mà làm cho linh-hồn chìm đắm trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên, luân-hồi chuyển kiếp, ấy cũng tại sự mê lầm của lục căn mà say đắm lục trần; ý-thức lầm-lạc ấy khiến các trò nhận lấy cái thân ô-trược nấy là thật, cái cảnh phú-quí cùng cuộc tình duyên tồn tại vui say. Nào hay thân vô thường tạm mượn do tứ đại hiệp thành. Cuộc phú-quí tựa đám phù vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tàn, không chi bền chắc, còn tội-chướng thì linh-hồn phải chịu luân chuyển báo đền.
Ngày nay đã tỉnh ngộ qui y cùng Phật-pháp. Như vậy cửa trường-sanh bất diệt các trò đã gặp nẽo, nương đèn trí-huệ, ly xuất phàm-trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ qui y cho thấu đáo: Qui là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn-mẫu.
Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy, Phật từ-thiện cách nào ta phải từ-thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác-ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt ở chỗ giữ giới-luật hằng ngày. Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc-nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Thầy xét trong tam nghiệp, các trò còn mang nặng lắm. Chúng-sanh tịnh được tam nghiệp, thì khổ não lắm. Chúng-sanh tịn được tam nghiệp mới mong về cõi Phật. Tam nghiệp là: Thân nghiệp, khầu nghiệp, ý nghiệp (đọc lại trong cuốn Khuyến-Thiện).
Nhưng Thầy xét lại khẩu nghiệp của các trò nặng-nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí-huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan-dung mà đối-đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác-ái nhân-đạo mà cư-xử với mọi người. Cần hiểu cái lý vô ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng-hộ,
KỆ RẰNG:
Đạo-pháp thường hay dung với hòa, Xét người cho tột xét thân ta. Nếu người rõ phận vui lòng thứ, Ta thứ được người, người thứ ta.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ
PHẬT LÀ GÌ?
Phật giả là Giác giả, Giác giả là Tỉnh giả. Khi Đức Thích-Ca thành Phật thì Ngài nói pháp tứ-đế mà độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung-Đạo cho người hành theo.
ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT:
Không trưởng-dưỡng các thịt quá ư sung-sường như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung-sướng thái quá thì sanh nhiều dục-vọng mê đắm, làm cho trí-đạo tối tăm, không thể đạt huệ được. Không nên hành xác hay ép xác-thịt thái quá như: phơi nắng dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác quá độ thì hay sanh bịnh-hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi, tinh-thần kém-cõi, nhọc-mệt, trí-hóa lu lờ, không đủ sức mà học Đạo đặng. Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá mà cũng chăgn để nó sung-sướng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa với sức mình, gìn-giữ sức khỏe mới mong học được đạo-pháp.
Vậy Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khỗ hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo trình-độ và lòng nhơn của mình.
Điều cấn yếu là phải:
Làm hết các việc từ-thiện, Tránh tất cả điều độc-ác, Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ
CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI-ĐỨC
Chư Phật có bốn đại-đức. Vậy ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại-đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đức ấy là:
Đức từ: Phật đối với chúng-sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo-lắng đến, hết lòng dìu-dắt, dạy-dỗ, không nỡ để chúng-sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não; Đức bi: Nếu chúng-sanh nào dạy-dỗ chẵng nghe, làm điều độc-ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng; Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn-cảnh trái-nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn-bã; Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế-gian, sẳn lòng lìa xa các nghiệp tiền-trần, tha-thứ hết thảy những ai tối-tăm lầm-lỗi, chẳng còn vướng-víu chi với cuộc lợi-danh, tài-sắc, nhìn cõi dời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái. Vậy ta niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao cho ta có thể đắc được bốn đức ầy.
Ta cũng nên bố-thí, nhẫn-nhục, trì-giới (để độ tham, sân, si).
Còn phương-pháp niệm Phật là để trừ cái vọng- niệm của chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mệ-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền não ngăn che, chơn tậm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được mộ niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chùng ấy vọng niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình-dục còn đâu mà nảy sanh ra được?
Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trược nhiễm tràn-ai.
Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp).
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ
SƠ GIẢI VỀ TỨ DIỆU-ĐỀ
Khổ đề: Gồm các sụ khổ trong đời. Tập đề: Gồm có các tập-nhơn sanh ra quả-khổ. Đạo đề: Gỏm có tám đường chánh. Diệt đề: Phương-pháp diệt khổ, hưởng quả Niết-Bàn. SƠ GIẢI:
A) Khổ đề: Đức Phật nói rằng tất cả chúng-sanh trong cõi trần nầy chịu muôn ngàn đều khổ não, kể chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại làm tám điều, vì trong tám điều khổ ấy nó có thể nảy ra muôn ngàn sự khổ-não kia.
1/ Sự sanh khổ-Vì linh-hồn chưa được hoàn-toàn tròn đạo hạnh mà đắc quả vị nên còn phải đầu thai làm con người thế-gian. Khi nhập vào thai trong bụng người đàn-bà thì phải chịu sự tối-tăm tồi-túng, chẳng thấy trời trăng. Bị bao-bọc ràng-rịt, thai nhi bị sự nuôi dưỡng bằng tinh-huyết của mẹ, lúc mẹ đau ốm thì thai nhi yếu-ớt; lúc mẹ làm-lụng mệt-nhọc, thai-nhi chẳng yên; lúc mẹ đói cơm, thai nhi dường như cái túi bị treo chẳng vững; lúc mẹ ăn uống no bụng, thai nhi bị sự lấn-ép của bao-tử và ruột rất nhọc-nhằn. Khi đúng ngày giờ phải chun ra cửa sản-môn ô-uế như hai viên đá ép mình. khi ra khỏi mình mẹ, cảm thấy hơi gió cắt da, đau nhức khó chịu nên cát lên tiếng khóc để tỏ ý chẳng bằng lòng với cảnh cực nhọc.
Xét như vậy nên Phật mới cho sanh là khổ; mà chúng ta là người học đạo, xét cho chí lý đều cũng phải công-nhận sự nhận xét của Phật rất đúng vậy.
2/ Sự đau khổ - Nghĩ vì thân thể con người sanh ra cõi trần, có lớn già thì tất nhiên yếu đuối; nếu đã yếu đuối ắt ăn ngủ chẳng được điều-hòa, thêm ngoài thì bốn mùa thay đổi tám tiết xây vần, do nơi thân già yếu đuối, cảm những tà khí mà sanh ra bịnh tật. Ôi! Hễ thân huyễn giả nầy mang lấy bịnh tật rồi, nào là cơn tỉnh, cơn mê, tay chơn nhức-nhối gan ruộrt quặn đau, phổi héo tim khô, da teo huyết cạn, kẻ mang lao mang tổn, phương đàm ho suyễn, người thì đui cùi lở-lói, bại xuội sưng tê, thang-thuốc chẳng an, khẩn-nguyền chẳng giảm, cầu sống chẳng đặng, cầu chết chẳng xong.
Vậy thử hỏi khách trần-gian ai mà không muốn xa muốn tránh, mà nào ai được khỏi? Muốn tránh, tránh chẳng được, lại đa mang; như còn khổ não về bịnh tật, bút nào mà tỏ ra cho hết.
3/ Sự chdt khổ -Vật chi mà sanh trong cõi trần-gian theo các công-lệ tự-nhiên, hễ có sanh ra thì phải có ngày tiêu-diệt. Còn cái thân con người của ta đã do nơi tứ đại (đất, nước, gió,lửa) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày tan rã?
Tại sao mà gọi thân tứ hiệp thành? Xét rằng tuy là ta thấy có sự cấu tạo của cha mẹ mà thành thân của ta, nhưng mà cái thân năỳ suy gẫm cho kỹ lại: thịt và xương cốt là chắt đặc nên thuộc đất; máu huyết chất lỏng nên thuộc nước; hơi thở của ta thuộc về gió; sự ấm áp của ta thuộc về lửa.
Nhờ 4 món ấy chung hợp lại mới thành cái xác thịt của ta. Nếu hễ đến ngày tàn hạ rồi thì xương thịt rã ra huờn lại đất, máu huyết chảy ra huờn lại nước, hơi thở dứt đi thì trở lại với gió, sự ấm áp dứt đi thì nó trở lại cái nóng của mặt trơi. Như vậy tại làm sao gọi rằng khổ? Vì lúc sống linh hồn nhờ xác thịt mà học hỏi, kinh-nghiệm việc đời, xử sự tiếp vật, đeo-đắm theo lợi lợi, danh danh, tài tài, sắc sắc, không có chịu tra cứu phân biệt cho rõ giã chơn, ý-thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp chánh tưởng tà, rồi cũng do sự sai lầm ấy mà nhận huyễn thân nầy làm thiệt thân của mình, mãi lo o-bế sửa-sang, dồi mài cạo gọt, cưng nó dưỡng nó như : tích trữ cơm tiền, dành cho nó ăn, dành để thuốc-thang cho nó uống, kiếm tìm thanh sắc để cho nó vui, xây-dựng cửanhà cho nó ở (vẫn biết rằng ở trong đời ai củng phải lo thân, nhưng mà người hiểu Đạo, biết rõ cái thân của mình tạm mượn trong thời-gian để học-hỏi nên lo vừa chừng, chẳng có ích-kỷ mà lo cho mình vừa giúp-ích cho đời, chừng bỏ xác thì có cái khác, còn người không hiểu Đạo thì bo-bo giữ nó bằng lối ích-kỷ mê lầm) ấy là muốn cho nó được trường-tồn; kịp đến khi tử-thần gõ cửa, số vô-thường đã tới, sanh ra muôn ngàn kinh-hãi, thần-trí hôn-mê rất triếu mến cõi đời, cửa nhà con vợ, mà không làm sao sống được nữa, nên lúc ấy kẻ phùn mang, trợn mắt, người chắt lưỡi, nghiến răng, lăn lộn giật mình kêu than thảm-thiết. Xét xoi lúc ấy khổ sở là dường nào.
Mưu cầu bất đắc... Biệt ly... Oan tắng hội... Lo ngại... Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ
"TRONG VIỆC TU THÂN XỬ T KỶ"
Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín-đồ chân thành của đạo Phật được. Tai sao vậy?
Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng "các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người" mà trái lại, Ngài dạy rằng: "Các người nên hiểu biết phận-sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình". Thiệt-hành theo giáo-lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng-dẫn và ủng-hộ vậy.
Ta hãy đem đức-tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành-động y theo lời phán dạy của Phật.
Nếu ta cứ đem đức-tin thờ-phượng tôn-giáo bằng cách sai-làm thì rất có hại cho đời mạng của ta. Như vậy chỉ tỏ ra một người rất mê-tín (mặc dầu đạo của ta thờ là một đạo rất chánh đáng).
Vậy đồng thời với Đức Tin là Lòng Lành phải để cho nó đi cặp luôn luôn.
Có Dức Tin (Tin về thần quyền) mà thiếu Lòng Lành thì rất dễ bị tà-thần cám dỗ, bọn tăng-đồ lợi-dưỡng gạt-lường. Bởi những kẻ ấy thường bày ra cúng-kiếng để chuộc tội hoặc bắc-buộc ta thờ-kính một cách phiền-phức làm cho lòng u-tối của ta càng ngày càng u-tối thêm.
Cón có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ-thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển vậy.
Vậy đồng thời với đức tinh là lòng trí lành phải đi cặp luôn luôn.
Có dức tinh và lòng lành rồi thì dùng trí-huệ mà bình-đoán cái đạo của ta đang học hay sẽ học một cách xác-thực, tìm hiểu cho rõ-ràng cái mục-đích ấy, như thế mới mong thoát khỏi tà kiến gạt-gẫm ta đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay một ông thầy mê dốt.
Người học Đạo muốn mở-mang trí-huệ cần phải tìm phương-pháp diệt cái vô-minh (tối-tăm ngu-muội).
Muốn diệt cái vô-minh trước phải điêu-luyện khối tinh-thần cho mạnh-mẽ đặng tự lập con đường rõ-ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương-mục mà bài trừ những thành-kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu-ngạo, tật-đố, gièm-siểm, dua-nịch, ích-kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục-tình và sự phiền-não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở-mang vậy.
Người có tâm nếu không tập suy-gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.
Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát-triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc-chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả.
Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông-đảo rồi ta cũng vội theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo-lý ấy như thế nào.
Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội-vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thể nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên-hạ thấy rõ ta mê-tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài-bác, nhạo chê hủy-bán và cũng rất uổng cho cái công-trình thành-kính lễ-bái của ta vậy.
Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy-gẫm phán-đoán kỹ-càng; chừng hiểu biết rõ-ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả.
Sự đầu tiên cuẳ người hành Đạo là cốt sửa những tư-tưởng, tìm cách đánh đổ tư-tưởng xấu-xa, đem thay vào những tư-tưởng ôn-hòa, đạo-đức.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ
NHỮNG CÂU CHÚ THƯỜNG NIỆM
Thấy trong quyển "Tăng đồ nhà Phật" có chép những câu chú mà xưa kia các vị "tì theo" và "tì kheo ni" thường dọc trong những công chuyện thường ngày, Đức Thầy lúc còn ở Bạc liêu, bèn dịch mấy câu chú nầy bằng lối thơi vần.
Dưới đây là những câu chú bằng hán văn và phạn văn, kế đó là những bài của Đưc Thầy dịch lại.
Thùy miên thỉ ngộ, Đương nguyện chúng-sanh. Nhứt thiết trí giác, Châu cố thập phương.
Như tôi tỉnh giấc lúc bình minh, Chí nguyện cầu cho cả chúng-sinh. Tâm trí khai thông cùng tỉnh táo, Mười phương đều rõ máy anh linh.
Đại tiểu tiện thời, Đương nguyện chúng-sanh. Khí tham, sân si, Quyên trừ tội pháp. (Án ngận lỗ đà da tá ha!)
Cũng như tôi tiểu tiện ra, Nguyện cầu sanh-chúng tống ra khỏi mình: Tham-lam, gây-gỗ, si tình, Khỏi điều tội-lỗi nhẹ mình cao bay.
Sự ngật tựu thủy, Đương nguyện chúng-sanh. Xuất thế Pháp trung, Tốc tật nhi vãng.
Việc xong rồi đến tôi dùng nước, Cũng như tôi lấy nước nầy ra. Nguyện chúng-sanh xuất khỏi ta-bà, Nhờ đạo-pháp lướt qua mau chóng.
Tẩy dịch hình uế, Đương nguyện chúng-sanh. Thanh tịnh điều nhu, Tât kiến vô tất.
Như tội rửa sạch khỏi dơ mình, Chí nguyện cầu cho cả chúng-sanh. Đắc được thân tâm, thanh tịch lạc, Điều hòa chẳng nhiễm nghiệp mê-linh.
Dĩ thủy quân chường, Đương nguyện chúng-sanh. Đắc thanh tịnh thủ, Thọ trì Phật-pháp. (Án chủ ca ra da ta ha!)
Lấy nước tôi rửa sạch tay, Nguyện cầu sanh-chúng được tay thơm lành. Ngõ hầu nắm pháp vô sanh, Giữ-gìn lời Phật ban hành từ xua.
Dĩ thủy tầy diện, Đương nguyện chúng-sanh. Dắc tịnh pháp-môn, Vĩnh vô cấu nhiễm.
Lấy nước rửa sạch mặt mày, Tối nguyền sanh-chúng đắc rày pháp-môn. Lặng yên trong cõi trường tồn, Chẳng hề tiêm nhiễm tục hồn bợn nhơ.
Thấu khẩn liên tâm tịnh, Dẫn thủy bá hoa hương. Tam nghiệp hằng thanh tịnh, Đồng Phật vãng Tây-Phương. (Ám hám án hản tá ha!)
Súc miệng tôi cugn lóng lòng, Ngậm nước như ngậm trăm bông đủ mùi. Cầu tịnh ba nghiệp xong xuôi, Tây-Phương quyết đến chung vui Phật-đài.
Thủ chấp xát nha, Đương nguyện chúng-sanh. Giai đắc diệu pháp, Cứu cánh thanh-tịnh.
Tay tôi cầm lấy xát nha, Nguyện cầu sanh-chúng gặp khoa diệu-mầu. Thảy đều thấy lý cao sâu, Đến nơi yên tỉnh tột sâu vô ngằn.
Trước hạ quần thời, Đương nguyện chúng-sanh. Phục chư thiện căn, Cụ túc tàm hủy!
Cũng như tôi mặc quần dây, Đặng cho phần dưới khỏi thây lỏa-lồ. Nguyện chúng-sanh điểm-tô điều thiện, Lấy việc lành che chuyện xấu-xa.
Nhược trước thượng y, Đương nguyện chúng-sanh. Hoạch thắng thiện căn, Chí pháp bỉ-ngạn.
Như tôi mặc áo trên vào, Nguyện cầu sanh-chúng trùm bao gốc lành. Trổi bước tìm cuộc vô sanh, Đến nơi sáng-suốt tịnh-thanh Niết-Bàn.
Chỉnh y thú đái, Đương nguyện chúng-sanh. Kiểm thúc thiện căn, Bất linh tán thất.
Như tôi gài áo buộc ràng dây, Cầu nguyện chúng-sanh khắp cõi nầy. Buộc chặt căn lành vào thể-phách, Chẳng lo thất lạc đổi cùng thay.
Nhược đắc kiến Phật, Đương nguyện chúng-sanh. Đắc vô ngại nhãn, Kiến nhứt thiết Phật.
Như tôi được thấy Phật đây, Nguyện cầu chúng-sanh đắc rày nhãn-quan. Mắt thông dòm suốt khắp ngàn, Nhìn thấy chư Phật thập phang đại đồng.
Pháp-vương vô thượng tôn, Tam giái vô luân thất; Thiên nhơn chi đạo sư, Tứ sanh chi từ phụ. Ngã kim tạm qui y, Năng diệt tam kỳ nghiệp. Xưng dương nhược tán thán, Ức kiếp mạc năng tân.
Ngài là vua Pháp tột cao, Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày. Tiên, người đồng kính đạo Thầy, Cha lành hết cả bốn loài chúng-sanh. Nay tôi qui mạng thiệt hành, Ngõ mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời. Tỏ ra khen ngợi những lời, Dầu cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng.
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, Thập phương thế giái diệc vô tỷ. Thế-gian sở hữu ngã tân kiến, Nhứt thiết vô hữu như Phật giả.
Trên dưới trời chẳng ai bằng Phật, Khắp mười phương hẳn thật khó so. Dòm trong cõi thế rộng to, Một người khó kiếm sánh so cùng Ngài.
Sự lễ, sở lễ, tánh không tịch, Cảm ứng đạo giao nan tư nghị. Ngã thử đạo tràng như đế châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung. Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.
Sự lạy Phật vốn không yên tĩnh, Đạo cảm-giao khó tính khôn bàn. Nay tôi ở trong đạo tràng, Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc-châu. Mười phương Phật hiện bàu hình ảnh, Có bóng tôi cũng sánh các Ngài. Từ chơn cho chí mặt mày, Cúi đầu làm lễ nguyện rày qui y.
Phật quan nhứt bát thủy, Bát vạn tứ thiên trùng. Nhược bất trì thủ chú, Như thực chúng-sanh nhục. (Án phạ tất ba ra ma ni tá ha!)
Phật thấy chén nước có trùng. Bốn ngàn tám vạn muốn dùng cho tinh. Nếu không trì chú niệm kinh, Khác nào ăn thịt chúng-sanh hằng-hà.
Nhược kiến không bát, Đương nguyện chúng-sanh. Cưú cánh thanh-tịnh, Không-vô phiền-não.
Như tôi thấy chén không, Cầu nguyện chúng-sanh đông. Đến tận bờ thanh-tịnh, Phiền não vẫn không không.
Nhược kiến mãn bát, Đương nguyện chúng-sanh. Cụ túc thạnh mãn, Nhứt thiết thiện pháp.
Bằng như tôi thấy bát đầy đây, Cầu nguyện chúng-sanh khắp cõi nầy. Chứa được đủ no thêm vẹn-vẽ, Pháp lành các món cũng về đây.
Thiện tai giải-thoát phục, Vô thượng phước điền y. Ngã kim đảnh đái thọ, Thế thế bất xã ly! (Án tất đà da tá ha!)
Lành thay y phục thoát trần, Khác nào thửa ruộng tột phần tốt tươi. Cúi đầu đội nó trên người, Thề nguyền kiếp kiếp đời đời chẳng phai.
Thiện tai giải-thoát phục Vô thượng phước điền y. Ngã kim đảnh đái thọ, Thế thế thường đắc phi. (Án độ ba độ ba tà ha!)
Lành thay y-phục thoát trần, Khác nào thửa ruộng tột phần tốt tươi. Cúi đầu đội nó trên người, Thề nguyền được mặc đời đời chẳng phai.
Thiện tai giải-thoát phục, Vô thượng phước điền y. Phụng trì Như-Lai mạng, Quảng độ chư chúng-sanh. (Án ma ha ca bà, ba tra tất đế ta ha!)
Lành thay y-phục thoát trần, Khác nào thửa ruộng tột phần tốt tươi. Nguyện theo mạng lịnh Như-Lai, Mở lòng rộng-rãi độ rày chúng-sanh.
Nguyện thử chung thinh sieu pháp-giái, Thiết vi u-ám tất giai văn. Văn trần thanh-tịnh chứng viên thông, Nhứt thiết chúng-sanh thành chánh-giác!
Nguyện tiếng chuông lành thông các cõi, Thiết vi địa-ngục cũng nghe rành. Nghe rồi thân tịnh tâm tròn sáng, Tất cả chúng-sanh Phật đạo thành!
Văn chung thinh phiền-não khinh, Trí-huệ chưởng bồ-đề sanh. Ly địa-ngục xuất hỏa khanh, Nguyện thành Phật độ chúng-sanh. (Án đà ra đế dạ ta bà ha!)
Nghe chuông phiền não tiêu tan, Bồ-đề tâm mở trí toan huệ mầu. Lìa xa địa-ngục thảm sầu, Khỏi nơi hầm lửa đặng cầu chơn tâm. Nguyện tu thành Phật chẳng lầm, Độ trong sanh-chúng hết làm tai nàn!
Thủ chấp tịnh bình,Đương nguyện chúng-sanh. Nội ngoại vô cấu, Tất linh quang khiết! (Án thế dà rô ca sất ta ha, Án phạ tất ra thí dà lò sất mạng sất tà ha!)
Tay tôi cầm lấy tịnh bình, Nguyên cầu thân thể chúng-sanh trong ngoài. Đều không nhiễm trược trần ai, Sạch tinh sáng láng tắc lai diêu huyền!
Bạc-liêu, tháng 7 năm Nhâm-Ngũ
CHO CÔ HAI GƯƠNG (CẦN-THƠ)
Thầy thương đệ-tử ngẩn-ngơ sầu, Vẫn biết công-phu con dãi-dầu. Nhưng nỗi tiền-khiên gây lắm nợ, Đời nầy trả dứt mới mong cầu.
Mong cầu gặp Phật hội Long-Hoa, Con rán trì tâm niệm Phật-Đà. Xét lại xác Thầy xưa cũng hoại, Thân phàm bỏ lại thế-gian mà!
Đến hội trăm quan còn hiện được, Thì ra xác thịt có cần đâu? Khuyên con nghĩ cạn đừng ưu-lự, Mượn chước huyền-cơ giaiả mạch sầu.
Ví Thấy xác thể phải còn đau, Hà huống chi con tránh được nào? Quả dữ trả rồi nhân thiện đến, Nếu Thầy đắc đạo bỏ con sao?
Đường xá xa xuôi Thầy nguyện cầu, Phật Thần ban rải huệ linh mầu. Cho con yên-ổn thân đôi chút, Chớ dễ nào Thầy quên trẻ đâu!
Bạc-liêu, 24-8 Nhâm- Ngũ (3-10-42)
CHO CÔ NĂM VÕ-THỊ-HỢI Ở BẠC-LIÊU
Hãy rán tu tâm dưởng tánh lành, Đừng cho ma nghiệp vọng tâm-sanh. Quay về cội phúc đường chân đạo, Phật-pháp thiền-na dốc thực hành.
Chờ nhiễm trần-hoàn đượm phấn son, Chiêm-bao cuộc thế chẳng thường còn. Chi bằng nhớ lại câu hồng thệ, Tỉnh ngộ nghe Thầy dạy hỡi con!
Hỡi con! Đời tục rất hôi tanh, Trí-huệ trau-giồi kiếm nẻo thanh. Mãn kiếp hồng-trần sanh Lạc-quốc Hưởng công niệm Phật rất yên lành.
Thầy thấy con nay đắm cõi trần, Đường tư lơ-lảng chẳng ân-cần. Thương thay công quả tu từ trước, Lại muốn bỏ đành gốc thiện nhân!
Chẳng sớm về nhà lo sám-hối, Cầu trên Phật-Tổ giải mê-căn. Ắt là hồn trẻ còn chi nửa(1), Dịa-ngục trầm-luân cách thượng tằng.
Sàigòn, ngày 23-12-42 (6-11 Nhâm-Ngũ)
(1) Quả thật cô này sau chết tại nhà thương Biên hoà năm 1945.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:13 | |
| - 1943:
Những bài sáng-tác năm Quí-Mùi (1943)
NĂM QUÍ-MÙI (1943)
HỎI PHỖNG ĐÁ (Cổ thi)
Ông đứng làm chi đấy hởi ông? Trơ trơ như đá vững như đồng. Giữ gìn non nước cho ai đó? Dâu bể cuộc đời có biết không?
PHỖNG ĐÁ TRẢ LỜI
Ông đứng đây cho chúng biết ông, Kêu lên một tiếng tợ chuông đồng. Khắp trong thiên-hạ đều lai tỉnh, Bước xuống thuyền từ đến cửa không.
Đứng chờ thờ-vận đến cho ông, Rải Đạo huyền-vi khắp Đại-Đồng. Bao bọc non Hồng cùng nước Lạc, Việc đời cũng biết chớ sao không?
Đứng chờ Đại Chúng trọng tôn ông, Dựng cuộc hòa-minh khắp Đại-Đồng. Mao-việt giang-sơn bờ cõi vững, Đuổi loài Phiên-tặc lội về không.
HỒNG-VÂN CƯ-SĨ (biệt hiệu của Đức Thầy) Saigon, năm 1943.
CHO ÔNG ĐỖ-VĂN VIỄN SẮP ĐỔI ĐI LÀM VIỆC XỨ XA
Ngàn dậm dường xa cách ải quan, Chúc nguyền đệ-tử được bình-an. Mong trời nhỏ phước cho dân thiện, Vô bịnh, vô ưu, muôn việc nhàn.
Đó rán trì lòng ẩn-nhẫn qua, Thì-giờ hạnh-phúc có đâu xa. Ngày nay sư-đệ tuy xa-cách, Trời Phật ban cho sẽ hiệp-hòa.
Cơn nầy thế-giới lắm phong-ba, Lừa-lọc con tiên diệt quỉ tà. Phú có cao-đàng phân kẻ bạo, Cho người lương-thiện khỏi xông-pha.
Non nước tuy xa đâu cũng trời, Cũng Trời, cũng Phật, cũng an nơi. Một tâm chí nguyện cho tròn đạo, Lòng chớ lo chi sư đổi dời.
Saigon, năm 1943
CHO BÀ NĂM CÒ Ở SÀIGÒN
Ngọn gió thiền môn cuốn bụi hồng, Lợi danh hai chữ mắt lờ trông. Nương theo đuốc huệ tầm chơn-lý, Lóng tiếng từ-bi diệt dục lòng. Tỉnh ngộ đã nghe lời Phật thuyết, Thoát mê suy nghiệm lẽ huyền thâm. Mau chơn bước đến Long-Hoa hội, Chầu Phật hòa vui cõi Đại-Đồng.
Saigon, năm 1943
GỌI ĐOÀN
Hởi anh em trong nhà Nam-Việt! Nhớ nước ta hùng liệt thuở xưa. Ngàn năm Bắc địch vày bừa, Mà còn đừng dậy tống đưa quân thù. Hồn chiến-sĩ ngàn thu rạng tỏ, Gương anh-hào chói đỏ như châu. Non sông thanh bạch một bầu, Ngọn cờ độc-lập bay hầu khắp nơi. Lịch-sử cũng rạng ngời mấy đoạn, Lắm anh-hùng hảo-hán xuất thân. Sanh vi tướng tử vi thần, Câu châm ngôn ấy truyền lần đến nay. Tới Nguyễn-trào sa tay một phút, Lũ Tây-dương bòn rút mấy mươi năm. Thương dân ruột tím gan bầm, Rửa chưa xong hận còn căm mối hờn. Nay chẳng lẽ ngồi đờn những bản, Vong-quốc-ca cho bạn chung nghe. Thôi thì ta hãy hiệp bè, Cùng nhau đoàn-kết đặng khoe sức hùng. Khắp Bắc, Nam đùng đùng một trận, Ấy mới mong quốc-vận phản hồi. Trước là dẹp lũ Tây bồi, Sau đưa quốc-tặc qui hồi Diêm-cung. Nếu nay chẳng vẫy-vùng cương-quyết, Thì ắt là tiêu-diệt giống nòi, Muôn năm chịu kiếp tôi đòi, Thân người như thế còn coi ra gì?!
GỌI ĐOÀN THANH NIÊN
Hỡi thanh-niên trong nhà Nam-Việt, Thanh-niên đừng mài-miệt truy-hoan. Cùng nhau hiệp bạn vầy đoàn, Luyện rèn thao-lược đặng toan báo cừu. Cứu được nước danh lưu thanh-sử, Noi tinh thần quân lữ Phù-Tang. Lòng yêu tổ-quốc hoàn toàn, Xông pha chiến địa gian-nan sá-gì, Chớ có ngũ li-bì trong mộng, Để dân ta mãi sống khốn cùng. Á-đông súng nổ đùng đùng, Thì ta cũng phải vẫy-vùng thoát-ly. Đừng nhu-nhược mê-si tửu sắc, Mà huông tha lủ giặc cùng đường. Thanh-niên nghĩa-vụ phi thường, Phận là phải biết yêu thương giống nòi. Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại, Của cọp rồng trên giải đất ta. Một mai cọp đã lìa nhà, Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng? Vậy anh em phải chung lưng lại, Dùng sức mình đánh bại kẻ thù. Tỏ ra khí-phách trượng-phu, Vung long-tuyền-kiếm tận tru gian thần, Xưa nước đã bao lần khuynh đảo, Được cứu nguy nhờ máu anh-hùng. Hy-sinh báo quốc tận trung, Đem bầu nhiệt huyết so cùng sắt gang. Việt-Nam là giống Hồng-Bàng, Muôn đời xa lánh tai-nàn diệt vong.
Saigon, năm 1943
TẶNG ĐOÀN THANH-NIÊN ÁI-QUỐC:
Vừa nghe nói Đoàn Thanh-Niên ái-Quốc, Lòng sĩ-tăng bổng bật sự vui say. Âu là Trời đã sẵn bày, Non sông chìm đắm có ngày phục hưng. Khắp Á-Đông tưng-bừng náo-nhiệt, Nô-nức nhau kiến-thiết quốc-gia. Kẻ sang hải-ngoại về nhà, Người trong tăng-lữ cũng là ước-ao. Bấy lâu đã khát-khao tự-trị, Thanh-Niên Đoàn chuẩn-bị xong chưa? Chừng nào sức mạnh có thừa, Diệt-trừ kẻ bạo cho vừa lòng dân. Gương trung-nghĩa Thánh Thần cảm động, Ắt có ngày mở rộng cơ-quan. Từ Nam ra Bắc xa ngàn, Nhưng lòng phải một mới toàn mưu hay. Chừ dầu có đắng cay rán chịu, Đợi cơ Trời kết-liễu thù chung. Làm cho rõ mặt anh-hùng, Làm cho địch-thũ rùng rùng bó tay. Vậy mới đáng làm trai Nam-Việt, Chen vai cùng hào-kiệt Phù-Tang. Gánh-gồng bảo-bọc giang-san, Giữ-gìn biên-cảnh bằng an đời đời. Trăm họ mới thảnh-thơi nhàn-nhã, Lo đắp-bồi văn-hóa ngàn năm. Tham quan chừng ấy vắng tăm, Mọt dân chừng ấy kiếm tầm đâu ra. Đôi lời thô-kịch ngâm-nga, Tặng viên Đoàn-Trưởng gọi là yêu nhau.
Saigon, năm 1943
NHẪN ĐỢI THỜI CƠ
Vì có nhiều anh em bổn-đạo phân-vân về chỗ mùa hạ năm Quí-Mùi (1943) đã qua mà chưa thấy chuyện gí có thề cho là phù hạp với câu:
"Qua năm dê đến lúc mùa hè. Trong bá tánh biết ai hữu chí"
nên Đức Thầy có làm mấy bài thi dưới đây:
Bay hồn khiếp vía kể từ đây, Nhắn gởi cho ai vội trách Thầy. Trời hạ năm dê chưa nữa nữa, Tuần-huờn máy tạo cũng lần xây.
Lần xây thiện-tín rõ chơn Thầy, Chờ nóng tánh phàm chớ vội quây. Ngày lụn tháng qua năm sẽ đến, Trẻ già sẽ thấy cái hay hay.
Hay hay nam-nữ thỏa lòng khuây, Nếu chẳng thì ra lại trách Thầy. Muốn sớm tạn nhìn e úa rụng, Trì tâm tu niệm để rồi đây.
Rồi đây úa rụng xót lòng thay, Uổng tiếc công-trình bấy đến nay. Có khó mới khôn, khôn rảnh khó, Gìn tâm thiện niệm bớ râu mày.
Râu mày biết giữ đạo tâm chay, Đắc quả thành công cũng có ngày. Thất-Tổ Cữu-Huyền nơi chín suối, Những mong hậu tấn biết tâm chay.
Tâm chay hậu tấn rán tu thân, Bến giác chẳng xa cũng chẳng gần. Trời Phật thương người lo độ tận, Muốn lo giải-thoát phải tu thân.
Tu thân thiện-tín phải chuyên cần, Lục-tư Di-Đà giữ Tứ Ân. Rán nhẫn trăm phần dầu khó nhẫn, Dạ thưa quan chức phận làm dân.
Làm dân bá nhẫn thị lương hiền, Chữ nhẫn lời truyền Phật, Thánh, Tiên. Gương trước Hớn,Tần, Hàn-Tín nhẫn, Đã không khổ nhục khỏi ưu-phiền.
Ưu phiền trăm mối suốt canh thâu, Thiện-tín chưa thông lẽ nhiệm-mầu. Mãng sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp, Lo chi ô-thước chẳng xong cầu.
Xong cầu bờ giác bến sông mê, Thế-sự nhân-sanh hết nhúng trề. Đạo-pháp huyền-vi thâm diệu diệu, Chẳng màng thế sự tiếng khen chê.
Saigon, năm Quí-Mùi (1943)
BÀ-RÁ Bà-Rá mây năm nhốt tội nhơn, Hành-hà những kẻ mến giang-sơn. Bao giờ cuộc thế xoay chiều mới, Tháo củi tuông mây đặng rửa hờn.
Saigon, năm Quí-Mùi (1943)
ĐI CHƠI ĐÊM VỚI ÔNG LUẬT-SƯ MAI-VĂN-DẬU
Cùng ông thầy kiện đi chơi, Hứng luồng gió mát thảnh-thơi tấm lòng. Đi vừa giáp đặng một vòng, Ngồi lại bàn đá ngó mong trên trời. Sao một nơi, trăng một nơi, Trời xinh cảnh lịch tuyệt vời như tranh. Đi ngang bồn cỏ xanh xanh, Ổng quên luật-lệ ổng đành bước lên. Rầy ông, ông giả đò quên, Phải mà có lính biên tên sổ cò. Rồi đi nhiều nỗi quanh co, Ngay đường khám lớn nhỏ to luận bàn. Bỗng đâu một tiếng la vang, Nắm tay ổng kéo chạy sanh cạnh lề. Ấy là tiếng "ách-ta-lê"(1), Không đứng chỉnh-tề chúng bắn dập xương,
Saigon, mua thu năm 1943
(1) Halte là! (Hiệu lịnh bảo đứng lại).
AN-ỦI MỘT TÍN-ĐỒ
Con thuyền bát-nhã sang sông, Miệng ngoài gọi khách lòng trong ngại-ngùng. Đã từng dựa kẻ nâu-sùng, Cớ sao tâm trí còn tùng ngoại duyên. Muốn lên tiên được cảnh tiên, Nấc thang vinh-hạnh Thầy riêng cho mình. Từ đây đến buổi thanh-bình, Muôn người niệm Phật quả mình biết bao.
Trồng cây mà chẳng rấp rào, Để cho gió lại tạc vào gốc lay. Lòng người chẳng ớt mà cay, Bị câu tài-sắc đổi thay khôn lường. Một mai đến số vô-thường, Công kia với tội có lường kịp chăng?
Saigon, năm 1943
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:14 | |
| - 1944A:
Những bài sáng-tác năm Giáp-Thân (1941)
NĂM GIÁP-THÂN (1944)
CHO CÔ KÝ GIỎI Ở BẠC LIÊU
Rày đã tu thân lánh bụi hồng, Dạ đừng suy nghĩ chuyện minh-mông. Để tâm yên tĩnh tầm chơn-lý, Phổ cứu nhơn-sanh khắp đại-đồng.
Cô hai cô đã đi về, Mà sao tâm não nhiều bề ư tư. Làm sao gỡ mối sầu tư, Cho Thầy cho bạn cũng như cho mình?,
Viết cho cô diệu ít hàng, Chuối già ăn hết rõ ràng mười hai. Nội nhà ngó thấy bằng nay, Từ đây sắp đến không ai dám mời. Tưởng ăn vài trái đố chơi, Ai dè bao-tử là nơi kho tàng.
Sàigòn, năm 1944
ẠC-NÚC
Ạc-Núc từ khi đến đất nầy, Giết đà vô số kẻ thù Tây. Làm cho chí-sĩ nhà Nam-Việt, Chẳng đội trời chung với lũ mày.
ĐỜ-CU
Người Pháp bây giờ mới phục hưng, Trẻ già múa nhảy tửng-từng-tưng. Đờ-cu hội hiệp lăng-xăng xộn, Đứa biểu đầu đi đứa biểu đừng
Sàigòn, năm 1944
MUỐN LÁNH PHỒN-HOA
Muốn lánh phồn-hoa, lánh thị-thành, Tìm nơi non thẩm ngõ mai danh. Đợi cơ thiên-địa xây vần đến, Chờ cuộc phong-lôi đổi vận lành. Sớm hứng sương trong cùng vũ-trụ, Chiều mong gió mát với trời thanh. Xa nơi đa sự điều cao hạ, Muốn lánh phồn-hoa lánh thị-thành.
Sàigòn, năm 1944
Những bài sáng-tác năm Ất-Dậu (1945)
NĂM ẤT-DẬU (1945)
HUẤN-LỊNH
Hỡi tất cả thiện-nam tín-nữ !
Ngày mà chúng ta chịu khổ dưới gót giày của người Pháp và bọn quan lại hung tàn đã vừa qua. Kể từ nay tôn-giáo của chúng ta sẽ được tự-do truyền-bá. Vậy tôi nhân cơ-hội nầy tỏ cho các người được hiểu rằng:
Đạo phận là đạo từ-bi bác-ái, dĩ đức háo sanh khoan hồng đại độ; tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi.
Vậy hãy coi toàn dân cũng như anh em một nhà, mong họ liên-kết với chúng ta để kiến-thiết lại quê-hương cùng nền Đạo nghĩa. Những kẻ bạo-tàn từ trước đến giờ, nay đã ăn-năn giác-ngộ thì hãy dĩ đức nhiêu dung tội trạng của họ, để sau nầy quốc-gia định-đoạn, còn mình chỉ khuyên họ trở lại đường lành, chớ chẳng nên làm điều gì thái quá mà động đến từ tâm của chư Phật.
Mong các người hãy tuân theo huấn-lịnh nầy.
Sàigòn, ngày 2 tháng 2 Ất-Dậu (1945)
HỠI ĐỒNG-BÀO VIỆT-NAM !
Nước nhà đã tuyên-bố độc-lập. Kẻ thù giết cha ông của chúng ta hầu hết đã bị giam cầm. Giờ đây, bổn-phận của mỗi người Việt-Nam cần phải làm thế nào cho sự dộc-lập hoàn-toàn của nước nhà chóng thực-hiện.
Vậy tôi xin khuyên tất cả đồng-bào muốn tỏ ra xứng đáng với một người dân một nước tự-do thì chúng ta hãy nên đoàn-kết chặt-chẽ cùng nhau, hãy quên hết những mối thù hềm ganh-ghét, đừng bày ra cái họa nồi da xáo thịt khiến cho ngoại chơn khinh-bỉ một dân-tộc như dân-tộc Việt-Nam ta đã có nhiều tấm lòng nhân-hậu và những trang lịch-sử vẻ-vang, Còn bọn sâu dân mọt nước để sau nầy do Tòa-án quốc-gia định-đoạt, hiện giờ hãy rán tuân theo kỷ-luật của nhà binh.
Lo trả thù riêng, đốt phá nhà cửa, hoặc trộm cướp sát-nhân, làm rối trật-tự, có hại cho ssự kiến-thiết quốc-gia.
Kẻ yêu nước chẳng nên làm.
Những người lính Việt-Nam trong quân-đội Pháp thoát ngũ hãy ra nhà binh Nhựt ghi tên, sẽ vô tội. Những lính cảnh-sát hãy đem khí-giới ra nộp và hiệp-tác với nhà đương cuộc để giữ an-ninh. Những kẻ trộm cướp có khí-giới hãy đem khí-giới nộp và thú tội sẽ được tha-thứ.
Bình-tĩnh hiệp-tác chặt-chẽ với nhà đương cuộc, giữ sự an-ninh cho dân-chúng, có lợi cho sự kiến-thiết quốc-gia.
Kẻ yêu nước nên làm.
Nhân danh cho VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI kiêm CỐ-VẤN DANH-DỰ VIỆT-NAM ÁI-QUỐC ĐẢNG Ký tên: HÒA-HẢO
Sàigòn, tháng 2 Ất-Dậu (1945)
LỜI RIÊNG CHO BỔN-ĐẠO
Tôi ở Sàigòn khi cuộc đảo chánh xảy ra, vẫn đoán biết sẽ có vài chuyện chẳng hay trong quần-chúng, lập tức gởi thơ về khuyên giải mọi người, nhưng vì đường giao-thông bất-tiện mà thơ ấy đến rất chậm trễ, tôi lấy làm chẳng vui mà thấy một vài người trong Đạo và ngoài đời nhận lấy cái danh-từ của tôi mà làm một ít cử-chỉ trả thù không có xứng đáng với tấm lòng đạo-đức từ-bi; trước kia chúng nó hà-khắc ta, chúng nó đành; ngày nay ta hà-khắc lại, sao đành. Vì lòng chúng nó đầy sự hung-tàn, còn lòng ta lại đầy nhân-ái!
Nên kể từ nay kẻ nào trong Đạo còn làm điều gì không có mạng lịnh sẽ bị loại ra khỏi Đạo và giao nhà dương-cuộc xử một cách gắt-gao.
Ký tên: HÒA-HẢO
Sàigon, tháng 2 Ất-Dậu (1945)
HIỆU-TRIỆU
Hỡi đồng-bào Việt-Nam!
Vì một cái chánh-sách sai lầm của tiền-nhân ta mà Đế-Quốc Pháp có cơ-hội tốt chiếm-đoạt lãnh-thổ nước Việt-Nam. Gần ngót trăm năm nay, đồng bào ta trải biết bao cay đắng; lớp kẻ thù giày đạp, lớp quan lại tham-ô, vì thế nên người dân Việt-Nam gánh vác biết bao sưu-thuế nặng-nề. Kẻ thù đã lợi-dụng chánh-sách ngu dân để nhồi sọ quần-chúng, gây mầm chia rẽ Bắc, Nam, Trung, phá rối sự đoàn-kết, hầu mong cho cuộc đô-hộ được vĩnh-viễn trên giải non sông đất nước mà Tổ-Tiên ta phải phí biết bao máu đào mới gầy dựng được.
Vả lại từ trước cho đến nay các bực anh-hùng, các nhà chí-sĩ khắp ba kỳ đã bao phen vùng-vẫy chống lại quân thù mong gầy dựng lại nền Đôc-Lập cho quê hương đất Việt.
Nhưng than-ôi! Chỉ vì thiếu khí-giới tối-tân, chỉ vì sơ đường luyện tập mà giọt máu anh-hùng đành hòa với bao nhiêu giọt lệ, khóc phút sa cơ, để lại cho người đồng thời và cho đoàn hậu-thế muôn vàn tiếc thương ân-hận.
Cách bốn năm nay, Đế-quốc Pháp, Đế-quốc Pháp đã tan tành gẫy đổ; địa vị người Tây cũng bị suy-lạc rất nhiều trên bán đảo Đông-Dương. Kế đến quân-đội Nhựt tràn sang, bọn cầm quyền Pháp ở xứ ta muốn duy trì quyền chủ-trị của họ bèn lợi-dụng tất cả điều-kiện kinh-tế, để cung-cấp các sự nhu-cầu cho quân-đội Nhựt hầu giữ vững cuộc bang-giao. Đàng khác, họ gia-tăng sự áp-bức, làm cho dân-chúng ta phải điêu-linh trong vòng khổ-sở, hầu làm cho chugn ta mất cả năng-lực, cùng tinh-thần tranh-đấu, mong kéo dài ngày tháng chờ cơ hội thuận-tiện để vẫy-vùng.
Đến ngày hôm nay, giai-đoạn tranh-đấu đã đến thời-kỳ quyết-liệt, cho nên lòng hân-hoan và mối hy-vọng của kẻ thù đã bộc-lộ rất rõ-ràng. Vì vậy tình bang-giao giữa chúng nó với Chánh-phủ Nhựt-bổn chẳng còn được ổn-thỏa nữa.
Đó là lý-do để cho quân-đội Nhựt giải quyết vần-đề Đông-Dương và rạng ngày 26 tháng giêng năm Ất-Dậu ta (nhằm ngày 10 Mars 1945 theo dương-lịch). bộ máy cai-trị của chúng nó bị hoàn-toàn gãy đổ.
Hỡi đồng-bào Việt-nam!
Chúng ta đã bước và đang bước đến một khúc nghiêm-trọng trên lịch sử. Giờ đây ta đã có thêm nhiều đặc-quyền lo-lắng đến cái giang-san gấm-vóc của Tổ-Tiên ta di-truyền lại.
Vận-động cuộc độc-lập!
Vận-động cuộc độc-lập!
Phải! Toàn-quốc phải liên-hiệp vận-động cho cuộc Độc-Lập. Đấy là cái chủ-trương duy nhất của Việt-Nam Độc-Lập Vận-Động-Hội.
"Việt-Nam Hoàn-Toàn Tự-Do, Độc-Lập".
Đấy là cái khẩu-hiệu duy-nhất của người Việt-Nam.
Từ khi Quốc gia bị khuynh-đảo đến nay, chúng ta chỉ hợp từng đoàn-thể nhỏ hoặc độc thân tranh-đấu và phải bao phen thất bại một cách đắng cay chỉ vì thiếu tinh-thần đoàn-kết, thiếu sức bền-bỉ dẻo-dai để chống lại kẻ xâm-lăng vô cùng tàn-bạo. Thời giờ nầy ta đã học-hỏi được nhiều rồi, ta đã thâu thập kinh-nghiệm khá hơn rồi; vậy thì ta nên đồng nhận chân ý-thức như nhau, nắm tay nhau quả-quyết mạnh dạn tiến bước trên con đường tranh-đấu.
Hỡi các bạn trí-thúc Việt-Nam!
--Các bạn có bị cái thứ văn-minh cặn-bả cám-dỗ chăng?
--Các bạn có quên tinh-thần quốc-gia hùng-dũng của Việt-Nam chăng?
--Không! Không! Chúng tôi chắc hẳn rằng không vậy.
Các bạn cũng biết cái cặn-bã của nền văn-minh Pháp nhồi nắn rất nhiều đồng-bào ta trờ thành những bộ máy của bọn xâm-lăng. Các bạn đã ôn-nhuần những trang lịch-sử vẻ-vang mà từ ngàn xưa đến giờ, tiền nhân ta viết ra bằng tâm-cơ và bằng huyết-hãn, vẫn còn đầm-đìa trên mặt giấy. Vậy ngày nay, các bạn nên lợi-dụng thời-cơ thuận tiện để đem tất cả trí, năng, đức, hạnh, tham-gia vào Hội, lãnh-đạo nhân-dân hầu huấn-luyện cho nhau cái tinh-thần quốc-gia kiên-cố.
Hỡi các bạn thanh-niên!
Trong ba năm nay, theo mạng lịnh của người Tây, có rất nhiều bạn nhờ sự tháo-luyện, nên thân-thể được cường-tráng. Tuy vậy mà thou hỏi quân thù có thật lòng thương giống-nòi dân Việt nầy chăng?
Decoux, Ducouroy có thật lòng thương yêu quí mến các bạn chăng? Có khi nào kẻ dị-chủng ấy đã chiếm-đoạt cái di-sản quí báu vô cùng vô tận của Tổ-Tiên ta di-truyền lại mà thương bạn mến bạn. Ấy chỉ vì chúng nó lợi-dụng bạn, luyện-tập bạn phòng khi hữu sự thì đem bạn làm mồi cho gươm súng hầu bảo-vệ lợi-quyền tư riêng của chúng.
Nhưng rủi thay cho quân-thù, may thay cho lương dân Đại-Việt! Bọn nó chưa đủ ngày giờ thực-hành ý-định liền bị sanh cầm. Ngày nay, thay vì phải bắt buộc phụng-sự cho những kẻ đã sát-hại tiền-nhân ta, chiếm-đoạt lãnh-thổ ta, giành-giựt lợi-quyền ta, đàn-áp đồng chủng ta, các bạn hãy để tinh-thần tráng-kiện ấy vùa giúp vào công cuộc kiến-thiết nền Độc-Lập cho giang-san đất Việt.
Hỡi các bạn Thanh-Niên! Các bạn nên tham-gia vào V.N.Đ.L.V.Đ.H. để đạt tới mục đích.
Hỡi các cụ đồ nho! Hỡi các nhà sư!
Các cụ Đồ Nho! Từ trước đến nay, luôn luôn các cụ vẫn hoài bão một nhiệt-vọng cho sự Độc-Lập của nước Việt-Nam, luôn luôn các cụ vẫn nuôi-nấng một tinh-thần Quốc-gia càng ngày càng mạnh-mẻ. Cái ngày mà các cụ mong-mõi, thiết-tha đã đến và ngày giời nầy các cụ rất khoan-khoái được thấy cái nguồn sanh-lực của nước Việt-Nam tái phát. Bao nhiêu tiết-tháo của thời xưa vẫn còn in sâu vào tâm não, bao nhiêu thành-tích vẻ-vang hùng-tráng của thời xưa đã chép ra mà nét chữ vẫn chưa mờ, còn lưu lại nơi trí óc các cụ những kỷ-niệm liệt-oanh rực-rỡ.
Hỡi các cụ đồ nho! Hãy tham-gia vào phong-trào mới của nước nhà để khích-lệ nhân-tâm.
Các bực Tăng-Sư, Thiền-Đức! Các cụ có nhớ chăng? Trên lịch-sử Việt-Nam thời xưa nhà Đại-Đức "Khuông-Việt" dầu khoác áo cà-sa, rời miền tục lụy, thế mà khi Quốc-gia hữu sự cùng ra tay gánh vác non sông.
Từ khi người Pháp qua chiếm đất ta, bề ngoài gọi rằng cho ta tự-do tính-ngưỡng, nhưng bên trong dùng đủ mọi cách âm thầm chia rẽ và phá hoại cho tín-đồ nhà Phật không có sức đoàn-kết chấn hưng hầu bài-trừ cái lưu tệ di-đoan mê-tín.
Đã vậy lại không có cơ-quan tuyên-truyền thống nhứt, cũng chẳng có trường chung đào luyện tăng-sư. Các cụ nên biết: hễ nước mất thì cơ-sở của Đạo phải bị lấp vùi; nước còn nền Đạo được phát khai rực-rỡ.
Chúng tôi ước-mong các cụ noi gương đức Đại-Sư "Khuông-Việt" tự mình gia-nhập vào V.N.Đ.L.V.Đ.H. để làm gương, hay là để khuyến-khích các môn nhơn đệ-tửmau tham-gia vào phong-trào mới hầu chấn-chỉnh Quốc-gia ta. Khi nào nước nhà được cường thạnh, đạo Phật mới đặng khuếch-trương tự-do hầu gieo rắc tư-tưởng Thiện-Hòa và tinh-thần Từ-Bi, Bác-Ái khắp bàng-nhân bá-tánh.
Hỡi các nhà Thương-mãi!
Nông-gia! Thợ thuyền!
Dưới sự kiềm chế của bọn xâm-lăng, nền thương-mãi quốc-gia bị đắm chìm kiệt-quệ, cơ hồ bị tay người ngoại quốc chiếm hẳn. Vì thế dưới sự chi-phối của bọn Đế-quốc Pháp, các nền kinh-tế, thương-mãi của người Nam không có cơ ngóc dầu dậy nổi.
Các nền tiểu-công-nghệ, thủ-công-nghệ bị uy-hiếp nặng-nề cho đến đổi những nhà tiểu tư bản đều bị vô-sản hóa, lâm vào một tình-trạng vô cùng lầm than khổ não.
Thương-gia Việt-Nam đành bó tay không phương giải-cứu. Muốn cho nền thương-mãi đặng phát-triển, thương-gia đặng thạnh-vượng, phi trừ sự "Độc-Lập" của nước nhà ra chẳng có cái gì có thể vãn cứu nổi.
Các nông-gia bị cái áp-lực bất công của bọn thực-dân người Pháp và những kẻ quan-lại kiêm địa-chủ hiếp bức đủ mọi phương-diện, đều bị bóc-lột rất quá đáng. Nông-nghiệp là nguồn gốc kinh-tế của xứ-mình; nhưng vì muốn làm cho quân-đội Nhựt-Bổn thiếu kém đồ ăn và lấy cớ cung-cấp cho quân-đội Nhựt má người Pháp, ngót mấy năm nay, thi-hành chánh-sách hết sức độc-ác, tịch thâu hay mua rẻ nông-sản, kiểm-trai hóa-vật bày ra nông-phốt hợp tác lủng-đoạn lợi quyền, làm cho nông-nghiệp phải chịu thiệt-thòi rời-rã, khọng còn sản-xuất nhu xưa, kẻ làm ruộng vì vậy mà nghèo hèn đói rách. Bọn cầm quyền Pháp chẳng có giúp cho kỷ-thuật canh-cải được điều gì tốt đẹp cả, và chỉ khai-thác ít con kinh cho chiếu lệ, chớ 80 năm nay nghề nông ta vẫn còn nằm trong vòng ấu-trỉ phôi-thai với những khí-cụ của ông bà ta để lại. Họ chẵng có đem lại thứ máy-móc nào giúp cho nông-phu cũng không khi nào được thư-thái, cho đến muối là một món ăn mà Đông-Dương sản-xuất rất nhiều, nhưng vì người Pháp mà mấy năm nay trở nên thiếu-thốn chẳng đủ cung-cấp cho nhân-dân.
Nền kỹ-nghệ trong xứ chẳng những không được khuyến-khích giúp đỡ mà lại còn bị cấm ngăn gián-tiếp khiến cho sự nhu-cầu của dân-chúng thiếu-thốn mọi bề, từ một cây kim may cho đến một cơ-khí tinh-xảo. Tóm lại tất cả các nhà kinh-tế, kỷ-nghệ, thương-mãi nông-nghiệp, tất cả các nguồn-lợi thiên-nhiên hay nhân tạo, tất cả các nguyên-liệu cho sự sống còn của xứ sở bị người pháp hoặc chiếm đoạt, hoặc tàn-phá làm cho nước nhà không còn là một nơi phì-nhiêu phong-phú nữa.
Thợ-thuyền nhơn-công cũng ở dưới sự bạc-đãi, bức bách như nông dân; họ sống một cuộc đời luôn luôn thiếu kém và vẫn phải rụt-rè khép-nép với bọn chủ xưởng người Tây, vẻ mặt đầy hung-ác.
Nhiều khi lắm người nhân công bị hành-hà tàn-nhẫn, giết chết biệt thây, hoặc bị sốt rét rút hết máu-me nơi cánh rừng cao-su bát-ngát, hoặc chết dưới những hầm mỏ âm-u mà nào ai có mở cuộc điều-tra, nào ai dám mở lời kêu ca thống trách và pháp-luật vẫn bỏ mặc tình, chẳng một điều gì chở-che bảo-bọc, ấy cũng tại nguyên-nhân nào? Nếu chẳng phải tại nước mất nhà tan, nen đdám người vong-quốc ấy phải ngậm-ngùi với biết bao điều ân-hận.
Hỡi các thương-gia, nông-gia, thợ-thuyền! Cố gắng lên! Hùng mạnh lên! Và liên-kết cổ động tranh-đấu cho nền độc-lập hoàn-toàn của Quốc-gia hầu vãn-cứ đồng-bào mình cùng quyền-lợi mình.
VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI
thành-lập chẳng phải chỉ để lo riêng cho cái quyền-lợi của một người hay một hạng người mà là cho chung cả mấy mươi triệu người dân Việt.
Vậy thì mỗi người công-dân Việt-Nam đều phải nghĩ đến xứ-sở mình, đến tương-lai đất nước mình, đến sự sống còn của dân-tộc mình; vì mặc dầu đã bị triệt-hạ trên giải đất Đông-Dương, Đế-quốc Pháp bên kia trời cũng vẫn còn hoài-bảo cái mộng-tưởng khôi phục lại quyền chủ trị; vậy thì đồng-bào hãy cố gắng lên!
Chúng tôi mong rằng các bực lão thành, các hàng trí-thức, các thanh-niên nam-nữ, các đồng-bào vì đất nước chung, vì mục-đích cung, hợp sức cùng nhau để đạt cái nhiệt-vọng tối-đại tối cao thì tiền-nhân ta mới đành ngậm cười nơi chín suối.
VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI
"Ủng hộ triệt-để các dảng Ái-quốc chân chính"
"Bài-trừ triệt-để bọn mọt nước sâu dân".
Saigon, tháng 3dl.1945
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:16 | |
| - 1945:
Những bài sáng-tác năm Ất-Dậu 1945 (tiếp theo)
Saigon, ngày 21 tháng 4 năm 1945 dl.
Lời ủy-nhiệm cho các Ban Trị-Sự Tỉnh-bộ.
Vì Thầy không thế trực-tiếp giải quyết những việc biến-cố xảy ra hằng ngày ở trong đạo, nên cho Ban-Trị Sự được thay mặt trọn quyền thu-xếp tổ-chức giữ-gìn cho toàn thể bổn-đạo được có trật-tự yên-ổn làm ăn. Xét những việc đã xảy ra từ ngày chánh biến đến nay, đều do những kẻ không vâng lịnh Thầy, và các nhà trí-thức trong đạo, tự mình hành-động không ý-thức phương-pháp.
Là vì có nhiều kẻ dối tu làm bậy. Thiếu học-thức kinh-nghiệm, hành-động không thứ lớp. Thiếu tổ-chức và Ban-Chỉ-huy. Không vâng lời Thầy dạy. Để bọn trộm-cướp xen vào tá danh. Nên trong khi chờ Chánh-Phủ phê chuẩn Hội Phật-Giáo Liên-Hiệp, chúng ta phải lo cho toàn thể trong đạo bằng cách xếp họ vào trật-tự một cách yên-tịnh, không ồn-ào quảng cáo, không phiền-nhiễu đến cơ-quan cai-trị và nhơn tâm.
Ban Trị-Sự phải giải-quyết những vấn-đề dưới đây, khỏi phải hỏi ý kiến Thầy:
Điều 1-Được quyền tổ-chức các Ban Trị-Sự trong đạo ở các làng trong tỉnh. Điều 2-Được quyền chỉ-huy họ, bắt-buộc họ phải tuân lịnh Ban Trị-Sự ở Tỉnh, không được khinh-suất hành-động. Điều 3-Chưa được phép quyên tiền và góp chi-phí, phải ngăn-cấm điều ấy. Điều 4-Cho các Ban Trị-Sự các nơi hay, phải lập thông-qui trong đạo, biên tên tuổi , nghề-nghiệp, để kiểm-soát bổn-đạo mới và cũ, biên riêng sổ. Điều 5-Kẻ nào làm bậy được quyển bôi tên trong sổ đạo, cho nhà chức-trách hay, hoặc bắt mà nạp cho nhà chức-trách trừng trị. Điều 6--Nếu có xảy ra việc biến-cố bất ngờ, Ban Trị-Sự nên phái người trực-tiếp với nhà chức-trách thương-lượng, điều-đình cho ổn-thỏa, đừng để hiểu lầm nhau. Điều 7-Nhửng kẻ nào gần đây có phạm vào tội trộm-cướp, không đặng biên tên vào sổ đạo. Điều 8-Ra lịnh cấm bổn-đạo không được tứ ý lên Thầy, phải báo cáo sự biến-động cho Ban Trị-Sự biết, để Ban Trị-Sự phúc trình cho Thầy biết mà thôi. Điều 9-Những viêc nhỏ-nhặt đã giải quyết xong, khỏi báo cáo cũng được. Điều 10-Cho bổn-đạo biết từ đây có tin gì trên Thầy về, chỉ gởi bằng giấp tờ có chữ ký tên. và gời cho Ban Trị-Sự Tỉnh-bộ mới được, đừng nghe theo lời truyền khẩu sẽ vô giá-trị, dầu người đó nói ở trên Thầy mới về cũng không được tin. Điều 11-Kẻ nào đem tuyên-truyền tin láo-xược, kẻ đó sẽ bị Ban Trị-Sự quở và kêu nhà chức-trách bắt. Điều 12-Kẻ nào xét coi những việc gì có ích-lợi chung trong đạo, mà không có trái với luật nước, không náo-động nhơn tâm, cả Ban Trị-Sự đồng ý, thì được tùy-tiện bổ-cứu thi-hành. Điều 13-Kẻ nào tự ý đi Saigòn thì sẽ không được trên nầy thừa-nhận. Điều 14-Cảnh-cáo cho mọi người biết, kẻ háo danh tham lợi là kẻ làm cho hoen-ố nền đạo. Điều 15-Giải nghĩa cho anh em trong đạo biết rằng: thay-thế vào những hành-động điên cuồng, anh em nên để thì giờ đó học chữ quốc-ngữ, đặng xem kinh sách, cho thông hiểu việc đời, mở-mang trí-huệ, mà biết được phải trái, trước khi hành-động một việc gì. Điều 16-Kẻ nào biết người đồng-đạo làm việc trái phép mà không thông báo cho Ban Trị-Sự hay, thì đồng tội với kẻ quấy, sẽ bị loại ra khỏi đạo. Những điều trên đây lần-lượt thi-hành và liên-lạc với nhà chức-trách hiện thời, để giải nghĩa cho họ biết mình làm việc như vầy là có ý giúp Chánh-Phủ trong việc trị-an, mà từ trước đến giờ mình không tổ-chức được.
Thầy ước-ao và tin cậy sự sốt-sắng của các Ban Trị-Sự, để các nơi đừng có việc xảy ra đáng tiếc, thì nền đạo chúng ta mới bành-trướng được.
Bức thư nầy có thể cho Tham-Biện, Chủ-Quận hay Tổng coi cũng được.
Ký tên:
HÒA-HẢO
LỜI TÂM HUYẾT (1)
Hởi tất cả thiện nam tín nữ! Trước khi các người quy y Phật-Pháp, ai ai cũng có lời nguyện cải hối ăn-năn làm lành lánh dữ, theo dõi mục đích từ-bi bác-ái của chư Phật.
Thầy nhận thấy có nhiều người thành tâm làm điều phải mà cũng có một ít kẻ tu hành giả dối, lợi dụng nền tôn-giáo gạt lường bổn-đạo mà lấy tiền để sống hoặc nói nhiều điều mộng huyễn sai lạc sự tín-ngưởng chơn-chánh.
Vì muốn giữ sự trật-tự, sự yên-tịnh chung cho toàn-thể, nên hôm nay Thầy nhắc lại cho bổn-đạo một lần nữa, nhưng điều sau đây để mọi người làm theo:
Không ai đươc phép đến nhà Thẩy để thăm hay nói chuyện riêng về gia-đình cá-nhân chỉ trừ khi nào vô cớ bị áp-bức. Không được chép bải vở nào của người khác để làm rối sự tín-ngưỡng. Phải coi chừng những bài vở nào của bọn khác mạo nhận là của Thầy (những giảng cấm dung trữ). Không được bàn-tán thời cuộc. Không được bàn-tán về chánh-trị và làm việc nào nhỏ mọn có thể gây ác-cảm với những người ngoại đạo. Tôn-trọng giới-luật của đạo, rán sửa mình cho trong sạch để gây quả-phúc tốt cho linh-hồn và xác-thịt. Phải tố-giác hành-vi xấu-xa của anh em đồng đạo cho người có nhiệm-vụ và trí-thức trong đạo, không được yêm-ẩn hay vì tình riêng mà che-chở. Nếu người nào không giữ được giới-luật của đạo, tốt hơn là ra khỏi đạo, không có sự ép buộc phải ở trong đạo. Những người nào cờ bạc, rượu trà, làm điều xấu-xa, nên biên tên họ đem cho mấy người có trách-nhiệm để những người ấy đem cho Thầy, Thầy sẽ trừng-trị một cách thích-đáng để làm gương cho kẻ khác, thời giờ nầy cần nhứt mỗi người bổn-đạo phải bình-tĩnh, nhẫn-nhục, không nên nghe lời ai xúi biểu làm điều phi pháp, tổn-hại đến danh-dự chung. Thầy mong rằng các thiện-nam tín-nữ thân-yêu không trái ý Thầy, để Thầy yên tâm mà tịnh-dưỡng trong một thời-gian.
Saigon, mùa hè năm Ất-Dậu (1945)
(1) Đây là lời lẻ trong một Huấn lịnh hay Chỉ thị mà Đức Thầy gởi cho Ban Trị-Sự P.G.H.H. ở các tỉnh. Vì hiện không có bổn-chánh nên chúng tôi chẳng nhớ rõ ngày tháng.
GỌI ĐOÀN TRÁNG SĨ Hãy tỉnh giấc hởi muôn ngàn tráng-sĩ, Nhìn thời xưa hùng-vĩ nước nhà ta. Bắc Nam một giải san-hà, Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi. Trải qua cũng lắm hồi vận bỉ, Rồi anh em tráng-sĩ đứng lên. Liều mình đục pháp xông tên, Liều mình giết giặc xây nền tự-do. Tiếng roi lại bình Ngò, sát Đát, Sử xanh còn ngào-ngạt hương thơm Trông phường giá áo túi cơm, Trông phường úy tử mà nhờm đi thôi. Nay vận nước đến hồi thịnh-thái, Một mai nước được phú-cường, Tấm thân tráng-sĩ cột rường nhà Nam.
Saigon, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
GỌI ĐOÀN PHỤ-NỮ
Chị em ôi, Bắc Nam là một, Chị em là rường cột giống-nòi. Dở sử xanh Nam-Việt mà coi, Gương Trưng, Triệu còn roi muôn thuở. Chẳng có lẽ xưa hay mà nay dở, Khiếp-nhược là cái cớ vong gia. Chí anh-hùng của khách quần-thoa. Đâu có kém bực tu-mi nam-tử. Sách Thánh-hiền truyền lưu mấy chữ, Thất-phu còn trách-nhiệm với non sông. Cả tiếng kêu bạn gái má hồng, Đem son phấn điểm tô Tổ-Quốc.
Saigon, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
KHUYẾN NÔNG
Hỡi đồng-bào! Hỡi đồng-bào! Thần chết đã tràn vào Trung-Bắc, Ngày lại ngày siết chặt giống nòi; Lật qua các bài báo mà coi, Thấy con số chết xem mòi kình nguy. Cũng tại vì Tây-di bày kế, Phá-hoại nền kinh-tế nước ta. Làm cho điên-đảo sơn-hà, Làm cho điêu-đứng con nhà Lạc-Long. Bồng phút đâu cuồng phong một trận, Quân Phù-Tang khai hấn bất kỳ. Còn đâu mưu khéo giải vi, Còn đâu hoãn kế trong kỳ viện binh? Dầu những kẻ vô tình với nước, Cũng tỉnh hồn mơ-ước tự-do. Tiếng vang độc-lập reo hò, Từ Nam chí Bắc cũng lò khí thiêng. Quyết phen nầy kết-liên một khối, Đem máu đào tắm gội giang-san. Giờ đây đem lại mùa-màng, Năm rồi miền Bắc tan-hoang còn gì. Chỉ có xứ Nam-Kỳ béo-bở, Cơ-hội nầy bỏ dở sao xong.
Cả kêu điền-chủ phu-nông, Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang. Muốn cứu khỏi tai nàn của nước, No dạ dày là chước đầu tiên. Nam-Kỳ dâu phải sống riêng, Mà còn cung-cấp cho miền Bắc, Trung. Quân-đội Nhựt cần dùng lương thảo, Cũng phải ăn lúa gạo Nam-kỳ. Ta còn ngần ngại nỗi chi, Mà không cày cấy kịp thì hỡi-dân?! Điền-chủ phải một lần chịu tốn, Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên. Muốn cho dân được lòng bền, Mua giùm canh-cụ là nền khuếch-trương. Giá mướn phải thường thường dể thở, Xử ôn-hòa niềm-nỡ yêu nhau. Cùng chung một giọt máu đào, Phen nầy hiệp sức nâng cao nước nhà. Kẻ phu-tá cũng là trọng trách, Cứu giống-nòi quét sạch non sông. Một phen vác cuốc ra đồng, Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai. Mưa nắng ấy đâu nài thân xác, Chí hy-sinh dầu thác cũng cam. Miễn sao cho cánh đồng Nam, Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà. Chừng ấy mới hát ca vui-vẻ,. Ai còn khinh là kẻ dân ngu. Không đem được chút công-phu, Không đem sức-lực đền-bù nước non. Gởi một tấc lòng son nhắn-nhủ, Khuyên đồng-bào hãy rủ cho đông. Nắm tay trở lại cánh đồng, Cần-lao, nhẫn-nại Lạc-Long tổ truyền.
Saigon, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
ĐÍNH-CHÁNH
Gần đây lắm kẻ ngoa truyền, Một bài sấm-ngữ nơi miền Hậu-giang. Nói rằng: tháng tám tai nàn, Tồi-tăm trời đất tan-hoang cửa nhà. Kẻ gần rồi đến ra thị-thành. Hại cho quốc-kế dân-sanh, Ruộng đồng tươi đẹp dân đành ngó lơ. Thương thay những kẻ ngu khờ, Lầm mưu gian-trá ngẩn-ngơ ưu-sầu. Hỏi rằng: Sấm bởi nơi đâu, Nói: "Ông Hòa-Hảo làm đầu truyền ra". Buôc lòng tôi phải đính ngoa, Cho trong toàn quốc gần xa được tường. Chuyện ấy là chuyện hoang-đường, Của bọn phá-hoại chủ-trương hại mình. Anh em ta hãy đồng tình, Nếu gặp "nắm óc" đem trình "Công-An". Chúng ta giải-quyết lẹ-làng, Đừng để chuyện huyễn tràn lan ra nhiều.
Ký tên: HÒA-HẢO
Saigon tháng tư năm Ất-Dậu (1945)
VIỆT-NAM PHẬT-GIÁO LIÊN-HIỆP-HỘI TÔN-CHỈ
Liên-hiệp các tôn phái đạo Phật, các nhà sư, các tín-đồ, các-nhà trí-thức có xu-hường về Phật-giáo để:
Tìm cách nâng cao tinh-thần đạo Phật. Tình những phương-tiện cứu-giúp kẻ nguy-nàn vì thời cuộc gây ra. Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang, tế. Binh-vực lẫn nhau trong sự tín-ngưỡng tự-do. ĐIỀU-KIỆN NHẬP HỘI
Bất luận nhà sư hay cư-sĩ, trí-thức, bần-dân hễ được có xu-hường rõ-rệt về Phật-Giáo, thành tâm chuẩn-nhận cái tôn-chỉ trên đây, đều được gia-nhập vào Hội, ở tôn-phái nào cũng đặng, mặc dầu gia-nhập Hội, nhưng vẫn giữ được sự tu hành và cúng-kiếng của THẦY mình hay TÔN-PHÁI mình.
Các tôn-giáo khác muốn liên-hiệp, phải có cuộc bàn-bạc riêng.
HỘI VIÊN
Hội-viên phân làm hai hạng:
Hoạt-động hội-viên, Tương-trợ hội-viên. Hoạt động hội-viên--Gồm các nhà sư hay cư-sĩ, trí-thức có lòng hy-sinh đời mình, tài-sản mình, mong mở-mang nền đạo-nghĩa và giúp nhân-loại trong sự lầm than. Tương-trợ hội-viên--Gồm tất cả đại-chúng có lòng thiện-từ, vì gia-đình, vì sự nghiệp làm ăn, không thế hy-sinh nhất-thiết, nhưng có lòng tán-dương ủng-hộ công việc của Hội bằng tinh-thần hay vật-chất. TRỌNG-TRÁCH HỘI-VIÊN
Phải giải-thích các tôn-chỉ của Hội cho quần-chúng hiểu rõ và làm cho Hội mau phát-triển. Tuân theo các điều-lệ của Hội. Giúp nguyệt-phí cho Hội. QUYỀN-LỢI CỦA HỘI-VIÊN
Hội phải cho giấy chứng-nhận là người của Hội. Hội sẽ binh-vực khi sự tín-ngưỡng của mình bị kẻ khác hủy-hoại. Nếu cần đến, Hội sẽ giúp-đỡ trong việc ốm đau, hay quan, hôn, tang, tế, tùy theo sức của Hội. Hội-viên có quyền bày tỏ ý-kiến mình về việc đạo-đức hay công cuộc phước-thiện đối với nhơn-sanh. Hội-viên có quyền bình-phẩm, chất-vấn hoặn tố-cáo các công việc của Hội một cách thân-hữu. Hội-viên có quyền xin ra khỏi Hội khi thấy mình không thể đeo-đuổi công việc của Hội. Hội-viên có quyền cử Ban Trị-Sự và ứng-cử. TRỤ-SỞ CỦA HỘI
Hội sẽ lấy chùa của Hội-viên, nhà cửa của những người từ tâm dưng cúng, hoặc là Hội mua, cất hay mướn, làm trụ-sở cho Hội.
NGUYÊN-TẮC TỔ-CHỨC
Các Ban Trị-Sự của Hội ở các nơi sẽ do đại-biểu của các tôn-phái nhà Phật trong xứ, các trí-thức và Thiện-nam, Tín-nữ đề-cử thành-lập. Các nhà sư, các cư sĩ, các thiện trí-thức hoạt-động (nam nữ không phân) có đủ tài đề chỉ-huy và được lòng tín-nhiệm của đại-chúng là điều-kiện tối cần cho nhân-viên trong Ban Trị-Sự.
Mỗi phái đều củ người đại-biểu trong Ban Trị-Sự
HỆ-THỐNG TỔ-CHỨC
Về toàn quốc, có Ban Trị-Sự Việt-Nam Phật-Giáo Liên-Hiệp Hội chấp-hành toàn quốc, về toàn xứ có Ban Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn xứ, về toàn tỉnh có Ban Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn tỉnh, về toàn thôn có Ban Trị-Sự chấp hành toàn thôn. Các Ban Trị-Sự mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn đều phải tuân theo mạng-lịnh của Trung-Ương, làm việc hằng ngày phải liên-lạc với Thượng và Hạ cấp. Tất cả Ban Trị-Sự mỗi năm phải cử lại một lần, ngày cử sẽ có Ủy-Ban Trung-Ương thông-cáo trước, khi cử xong Ban Trung-Ương sẽ bố-cáo danh-sách của các nhân-viên đắc cử cho Hội-viên hay. Khi các B.T.S. mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn cử xong phải đệ-trình danh-sách lên cho Ban Trung-Ương thừa nhận. Ban Trị-Sự gồm có:
Chánh và Phó Hội-Trưởng Chánh và Phó Thơ-ký Chánh và Phó Thủ Quỹ Hai viên Kiểm-soát Hai viên Cố-vấn Hai viên Tuyên-truyền và Liên-lạc Ba viên Dự-khuyết Các B.T.S. ngoài việc hằng ngày ra mỗi tháng phải hội-họp một lần tại hội-quán, hoặc nhà, hoặc chùa của Hội-viên đặng hội nhóm để nghe các nhân-viên trong Ban Trị-Sự bày tỏ sự hoạt-động của Hội. Ngày hội-họp định vào ngày 15 và 30 âm lịch trong mỗi tháng. Khi các B.T.S. cử xong, phải khẩn-cấp lập thêm 3 Ban: Ban Nghiên-cứu đạo Phật. Ban Huấn-luyện và Truyền-bá đạo Phật. Ban Chẩn-tế, lo tìm phương giúp-đỡ kẻ khốn-cùng. Ban Nghiên-cứu đạo Phật.-Gồm các nhà sư, những nhà thông-thái, để hằng ngày tra cứ kinh-điển, dịch sách, hay viết sách nói về đao Phật. Ban Huấn-luyện và Truyền-bá đao Phật.-Gồm các nhà sư, cư-sĩ, trí-thức hoạt-động, đặng Hội phải đi các nơi giảng-giải đạo Phật cho đại-chúng nghe, hoặc giả mở trường dạy đạo Phật. Ban Chẩn-tế.-Gồm các nhà hảo tâm từ-thiện nam-nữ hoạt động, chuyên lo cứu giúp kẻ nghèo-nàn đói-khó, tật-bịnh, hoặc giả thành-lập các nhà dưỡng lão nuôi trẻ mồ côi, người tàn-tật, nếu có thể được, nên mua trữ thuốc men vải bô, lúa gạo để dành cho cuộc phước-thiện. KỶ-LUẬT CỦA HỘI
Không được ganh-ghét chế-nhạo lẫn nhau nếu khác Thầy hay khác Tôn-giáo. Không được khuyến dụ bổn-đạo của ông sư hoặc tôn-phái khác bỏ THẦY hay Tôn-phái người ta theo THẦY hay Tôn-giáo mình. Không được lợi dụng danh từ-thiện của Hội để quyên góp tiền bạc làm của riêng. Không được chế-nhạo các Tôn-phái khác. Phải hòa-nhã với tất cả các tôn-giáo khác và dân-chúng. Phải thành-thật yêu-thương đoàn-kết và tìm cách chỉ dạy lẫn nhau. Phải trung-thành với tôn-chỉ của Hội. Phải tố-cáo các hành-vi bất chánh của các Hội-viên trước Ban Trị-Sự, không được vì tình riêng mà giấu-giếm. Phải nhận lỗi và tỏ lòng ăn-năn hối-ngộ khi Ban Trị-Sự địa-phương mình. Nếu phạm những điều trên đây:
Lần thứ nhứt: Bị phê-bình Lần thứ nhì: Cảnh-cáo Lấn thứ ba: Trục-xuất lập tức và giao cho pháp-luật trừng-trị. HẠNG ĐỊNH VỀ NGUYỆT-PHÍ
Vì có kẻ đủ sức người không, nên nguyệt-phí phân làm bốn hạng:
Hạng thứ nhứt: 3$00 Hạng thứ nhì: 2$00 Hạng thứ ba: 1$00 Hạng thứ tư: 0$50 Tất cả Ban Trị-Sự hễ chỗ nào cử xong đều trình lên Chánh-Phủ và nhà cầm quyền địa-phương danh-sách của Ban Trị-Sự và sổ sách cho Nà-Nước kiểm-soát.
Saigon, tháng tư Ất-Dậu (1945)
YÊU NƯỚC Yêu nước bao đành trơ mắt ngó, Thương đời chưa vội ẩn non cao. Quyết đem tâm sự tâu cùng Phật. Coi lịnh từ-bi dạy lẽ nào,
Phụng-Hiệp, tháng tư Ất Dậu (1945)
Bài này Đức Thầy đọc tại Phụng-Hiệp lúc đi khuyến nông; sau khi diển thuyết, Đức Thầy hỏi câu nầy: "Tôi là một nhà tu hành, lẽ thì vào chốn non cao, núi thẳm, tu tâm dưỡng tánh, cớ nào hôm nay lại xen vào chánh-trị?!"
Không ai nói gì, Đức Thầy có vẻ buồn, cau chơn mày rồi ngâm bài thơ tứ tuyệt trên đây.
(Do theo lời ông Mai-Ngọc-Quế thuật lại).
HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TRÔNG TÂY, HẪNG-HỜ VỚI NẠN ĐÓI BẮC-KỲ
Nam-kỳ có một lũ hề, Mày râu nhẵn-nhụi chuyên nghề buôn dân. Nhờ ơn Mẫu-quốc vinh thân, Giờ toan mua tảo bán tần nữa sao? Dửng-dưng trước nghĩa đồng-bào, Đói cơm khát nước trông vào thống tâm. Làm ngơ, giả điếc, giả câm, Tay ôm hủ bạc, mắt đăm đăm chờ. Vái rằng: "Mẫu-quốc gặp cơ." Trở qua Nam-Việt con thờ muôn năm. Dầu con nay ở xa-xăm, Chớ lòng thương nhớ đứng nằm không yên. Trước kia "nước mẹ" xin tiền, Của muôn trong túi con liền tuôn ra. Ngày nay tuy chẳng lại qua, Con cũng lén-lén cúng cha ít nhiều. Đồng-bào con chết bao nhiêu, Con để mặc kệ quạ diều bươi thây". Ai ơi còn nước mơ Tây, Mắt kia quá tối lại Thầy chửa cho.
SĨ-CUỒNG (biệt hiệu của Đức Thầy)
Tháng tư năm Ất-Dậu, (1945)
CAI TỔNG CHÁNH (CÙ-LAO GIÊNG) xướng
Giữ đạo từ lâu kín nhiệm mầu, Để lòng tầm đạo biết nơi đâu. Ngửa mong bái-ái từ-bi hóa, Trông lượng ơn Thầy chỉ đạo sâu.
ĐỨC THẦY đáp họa
Kinb nhẹm lòng nhơn ấy mới mầu, Đức là đạo cả chớ nơi đâu? Duyên lành sẵn có ơn trên hóa, Bồi dắp nền nhơn đức lại sâu.
"PHỤ-NỮ CA DIÊU"
Ngán thay bổn-đạo đàn bà, Lắm lời điêu-xảo gần xa đều tường. Làm cho hoen-ố Phật-đường, Không rèn được đức khiêm-nhường từ-bi. Tu còn ái-ố sân-si, Tu còn nhiều tánh dị-kỳ trần mê. Khó mong cửa Phật dựa kề, Càng gần địa-ngục nhiều bề thảm thương. Tỉnh tâm đốt nén tâm hương, Nguyện rằng đệ-tử một đường lo tu. Ăn-năn kẻo uổng công phu...!
Sadéc, ngày 28-7-45 (trong lúc Đức Thầy đi Khuyến-nông)
TẶNG THI-SĨ VIỆT-CHÂU
Thi-sĩ Việt-Châu tức là ông Nguyển-xuân-Thiếp mà hầu hết anh em tín-đồ đều nghe danh. Là văn-sĩ kiêm thi-sĩ, ông Việt-Châu có viết một tập thơ xuất sắc, nhan đề "Lông ngỗng gieo tình" để kể lại đoạn tình-duyên của Trọng-Thủy và Mị-Châu.
Trong khi cùng ngồi xe với Đức Thầy trên đường về Sàigòn, ông có trao cho Đức Thầy xem tập thơ ấy. Đức Thầy liền ngâm hai câu thơ dưới đây để phê bình gián-tiếp áng văn kiệt-tác của ông Việt-Châu.
"Mị-Châu ơi hỡi Mị-Châu, Mê chi thằng chệt để sầu cho cha!"
Liền đó, Đức Thầy bảo ông Việt-Châu thử làm thi tả cảnh ngổi trên xe trên đường về Sàigòn. Thấy ông Việt-Châu nặn óc mãi mà không ra thơ, Đức Thầy liền ứng khẩu đọc bài dưới đây:
Xe về chở theo chàng thi-sĩ, Bảo làm thi mãi nghĩ không ra. Vậy mà giữa chốn phồn hoa, Vang danh thi-sĩ hiệu là Việt-Châu. Quen thói viết thơ sầu thơ cảm. Không dìu dân hăc ám qua truông. Ngâm nga giọng quá u buồn, Làm cho độc-giả quay cuồng mê-ly. Theo dõi gót từ-bi mấy bữa. Phàm tâm kia đã rửa hay chăng? Thi-nhân đứng ngó để tăng-sĩ làm. Tăng-sĩ quyết chùa, am bế cửa, Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha. Đền xong nợ nước thù nhà, Thiền môn trở gót Phật-Đà nam-mô. Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật, Bụi hồng trần rứt sạch cửa không. Chuông linh ngân tiếng đại-đồng, Ta-bà thế-giới sắc không một màu. Sài-Gòn đến, trống lầu đã trở. Đề-huề nhau cửa nở xuống xe. Khuyến nông chấm dứt mùa hè...
Trên đường về Saigon, tháng 6 năm Ất-Dậu (1945)
ĐI KHUYẾN NÔNG VỀ
Lìa Saigòn trong vòng hai tháng, Khi lộn về tiệm quán tanh-banh. Bởi chưng pháo lũy phi hành, Quang bôm mù quáng tan-tành còn chi. Động lòng của kẻ từ-bi, Tây-Phương tấu lại A-Di Phật-Đà. Rằng: bên thế-giới ta-bà, Chúng-sanh tàn-sát cũng là vì tham. Di-Đà mở cuộc hội-đàm, Cùng chư Bồ-Tát quyết đam phép lành. Tịnh bình rưới khắp chúng-sanh, Làm cho giác-ngộ hiền lành như ta. Công-đồng hoạch-định san-hà, Nước ai nấy ở nhà nhà tự-do.
Saigon, tháng 6 năm Ất Dậu (1945)
TỰ THÁN
Gió hiu-hắc bên rừng quạnh-quẽ, Nhìn non sông đượm vẻ tang-thương. Mối tình chủng-loại vấn-vương, Thấy quân xâm-lược hùng cường căm gan. Vừa toan rút gươm vàng ngăn giặc, Bổng họa đâu gieo rắc bất-kỳ. Cường quyền một lũ ngu-si, Oan nầy hận ấy sử ghi muôn đời. Truyền khắp nước muôn lời vu cáo, Dùng trăm ngàn thói bạo hiếp dân. Làm cho trong nước rẻ phân, Làm cho giặc Pháp một lần sướng rang. Vậy cũng goi an bang định quốc, Rồi rút lui bỏ mất thành trì. Giống nòi nỡ giết nhau chi? Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông. Đoàn hậu tấn có lòng yêu nước, Khá nhìn xem gương trước răn minh. Riêng ta hai chữ nhục vinh, Thoảng cười thế sự nhân tình quá đen.
Lòng dân chớ khá xem khinh, Bạo tàn giết mắt nhân tình thì thua.
Miền Đông, cuối năm Ất-Dậu (1945)
-- Hết các bài sáng tác năm Ất Dậu --
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:19 | |
| - 1946:
Những bài sáng-tác năm Bính-Tuất (1946)
NĂM BÍNH-TUẤT (1946) TIẾNG SÚNG BÊN LẦU Nước non tan vỡ bởi vì đâu? Riêng một ta mang nặng khối sầu. Lòng những hiến thân mưu độc-lập, Nào hay tai họa áp bên lầu.
Bên lầu tiếng súng nổ vang tai, Trời đất phụ chi kẻ trí tài. Mưu quốc hóa ra người phản quốc, Ngàn thu mối hận dễ nào phai.
Từ ấy lao mình vượt khổn nguy, Băng rừng lội suối giả man-di. Ngày mong ải Bắc oan nầy giải, Đem sức ra nâng lá quốc-kỳ.
Nhưng khổ càng mong càng vắng bặt, Trời Nam tràn ngập lũ Tây-di. Biết bao đồng chí phơi xương máu, Thức-giả nhìn nhau hỏi tội gì?
Vì tội không đành phụ nước non, Phô bày tiết-tháo tấm lòng son. Ngăn phường sâu mọt lừa dân-chúng, Chẳng nệ thân-danh nổi mất còn.
Nếu mất thôi dành xong món nợ, Nay còn há dễ ngó lơ sao? Dọc-ngang chí cả dù lao-khổ, Thất bại đâu làm dạ núng-nao.
Thât bại đâu làm dạ núng-nao, Non sông bao phủ khí anh-hào. Phen nầy cũng quyết đền ơn nước, Máu giặc nguyện đem nhuộm chiến-bào.
Miền đông, năm 1946
(Trong khi Đức Thầy ẩn lánh Việt-Minh và người Pháp vừa mới tái chiếm Nam-Việt)
ĐỔNG DẢNG TƯƠNG TÀN
Người đồng đảng giết người đồng đảng, Ai Việt-minh, Cộng-Sản là ai? Đương cơn quyền lợi đắm say, Anh hùng chí-sĩ râu mày thế ư?, Đường muôn dặm lời thư một khúc, Giờ giặc đà tá-túc nhà ta. Ai ra nưng đở san-hà, Ai ra cứu vớt nước nhà lâm nguy? Phát-xít sẽ tầm truy tàn-sát, Không đảng nào mà thoát tai-ương. Nghĩ càng bực-tức đau-thương, Giết nhau để lợi cho phường xâm-lăng.
Miền đông, năm 1946
CHÍ NAM NHI
Nam-nhi mang chí cả, Bao tấm lòng sắt đá. Thương giống-nòi dẹp bã vinh-huê, Lướt đạn bôm giữ vững một lời thề: Tàn-sát hết quân thù xâm-lược, Tranh độc-lập tự-do cho nước, Cho giống nòi rạng-rỡ trước năm châu. Khí thiêng-liêng sông núi nhiệm-mầu, Un-đúc giống anh-hùng vang bốn bể. Gương sáng ấy soi chung hậu thế, Anh em ôi! theo dõi gót cùng ta. Rra tay quét sạch san-hà, Ra tay bồi-đấp nước ta hùng-cường.
Miền-Đông, ngày 10 tháng giêng Bính-Tuất (1946)
RIÊNG TÔI
Rứt áo cà-sa khoác chiến-bào, Hiềm vì nghịch cảnh quá thương-đau. Bên rừng tạm gởi thân cô quạnh, Nhìn thấy non sông suối lệ trào.
Nhìn thấy non sông suối lệ trào, Lòng nguyền giữ vững chí thanh-cao. Ai người mãi quốc cầu vinh nhỉ, Hậu thế muôn thu xét thử nào?
Hậu thế muôn thu xét thử nào? Lòng nầy yêu nước biết là bao? Vì ai gieo-rắc điều hồ-mị, Đành ngó non sông nhuộm máu đào.
Đành ngó non sông nhuộm máu đào, Thời-cơ độc nhứt cứu đồng bào. Muôn ngàn chiến-sĩ chờ ra trận, Bỗng vướng gông cùm chốn ngục-lao.
Miền đông, năm 1946
TIẾNG CHUÔNG CẢNH-TỈNH
Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến-sĩ, Mở lòng ra thương nghĩ sanh-linh. Đồng-bào ai nở dứt tình, Mà đem chém giết để mình an vui. Dù lúc trước nếm mùi cay đắng, Kẻ độc-tài đem tặng cho ta. Sau nầy tòa-án nước nhà, Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình. Lúc bâu giờ muôn binh xâm-lược, Đang đạp vày non nước Việt-Nam. Thù riêng muôn vạn cho cam, Cũng nên gát bỏ để làm nghĩa công. Khắp Bắc Nam Lạc-Hồng một giống, Tha thứ nhau để sống cùng nhau. Quí nhau từng giọt máu đào, Để đem máu ấy tưới vào địch quân. Đấng anh-hùng vang lừng bốn bể, Các sắc dân đều nể đều vì. Đồng-bào nỡ giết nhau chi, Bạng duật trương trì lợi lũ ngư-ông. Hỡi những kẻ có lòng yêu nước , Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê. Anh em lớn nhỏ quày về, Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly. Đả-đảo bọn Nam-Kỳ nô-lệ, Kiếp cúi lòn thế-hệ qua rồi. Lời vàng kêu gọi khắp nơi, Anh em chiến-sĩ nhớ lời ta khuyên.
(Viết vào lối tháng tại Miền-Đông năm 1946 để khuyên anh em tín-đồ Hòa-Hảo chấm dứt các cuộc xung-đột với Việt-Minh).
QUYẾT RỨT CÀ-SA
Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau. Quyết rứt cà-sa khoác chiến-bào. Đuổi bọn-xâm-lăng, gìn đất nước, Ngọn cờ độc-lập phất-phơ cao.
Ngọn cờ độc-lập phất-phơ cao, Nòi giồng Lạc-Hồng hiệp sức nhau. Tay sùng tay gươm xông trận địa, Dầu cho giặc mạnh há lòng nào.
Dầu cho giặc mạnh há lòng nào. Nam-Việt ngàn xưa đúc khí hào. Lúc giặc xâm-lăng mưu thống-trị, Anh-hùng đâu sá cảnh gian-lao.
Anh-hùng đâu sá cảnh gian-lao. Chiến-trận giao-phong rưới máu đào. Miễn đặng bảo tồn non nước cũ, Giữ an tánh-mạng cả đồng-bào.
Miền đông, năm 1946
TẶNG HỘI-ĐỒNG CỐ-VẤN NAM-KỲ
Tám ông Cố-Vấn Hội-đồng, Phùng mang trợn mắt ra công bán nòi. Hô hào nghinh-tiếp quân voi, Về vày mộ tổ để vòi mề-đay. Thinh múa mỏ, Phát khoe tài, Nam-Kỳ hiến-pháp sắp bày mị dân. Nào là chấn-chỉnh (củng-cố) hương-lân, Để cho lũ chó làm sân săn mồi. Vụng-về thay, bọn Tây-bồi! Sắm tuồng vẽ mặt mà giồi phấn đen. Ngàn muôn cử chỉ đê-hèn, Cúi lòn, bưng bợ tập rèn công phu. Lòng mong dân nước dại ngu, Để đám nghị mù tự-tiện làm quan. Nào ngờ trong lúc dở-dang, Nghị Phát vắng số suối vàng vội đi. Nghị Thinh lụy nhỏ lâm-ly, Than rằng bạn nở bỏ đi giữa chừng! Họp bàn tính kế trùng hưng, Vợ ban đã nửa chừng xuân nhưng còn. Ra tay dìu-dắt bốn con, Suối vàng bạn hỏi lòng còn ghen không? Muôn dân như chửa vừa lòng, Ước sao cả lũ vào tròng Diêm-La. Từ nay trong nước Nam ta, Thề rằng chẳng chịu đẻ ra giống nầy.
Miền đông, năm 1946
NGHỊ THINH VỚI CAO ỦY D'ARGENLIEU
NGHỊ THINH: Dạ dạ... Dám bẩm quan Cao-Ủy, Thậm chí nguy, thậm cấp chí nguy! Rối beng trận-tự Nam-Kỳ, Bạn tôi Nghị Phát mạng phi mất rồi. Còn bảy ông ngồi trơ mõ chó, Lòng những lo sóng gió bất kỳ. Nếu không phương pháp phòng nguy, Ức tình tôi sẽ điện đi hoàn-cầu. Cho thế-giới góp thâu tài-liệu, Rằng Việt-dân chẳng chịu phục tòng. Thế này cai-trị sao xong, Trả nước lại nó mới hòng ngũ yên. D'ARGENLIEU: Quan Cao-Ủy mặt liền sầm lại, Lũ dân gì kỳ quái lạ thường. Máy bay tàu chiến biểu-dương, Rõ-ràng Đại-pháp hùng-cường thế ni, Mà chúng vẫn khinh-khi sự chết, Chẳng lẽ tra giết hết trẻ già, Bằng không, muốn dứt can qua, Giao cho việc nước việc nhà nó toan. Mình làm khách bàng quan khi khỏe. Nước Việt-Nam son trẻ ra đời, Cọng-hòa đem lại khắp nơi, Muôn dân an lạc thảnh-thơi phú-cường. NGHỊ THINH: Nghị Thinh nghe bèn òa tiếng khóc: Thế còn công khó nhọc tôi đâu? D'ARGENLIEU: Mua cho ông một vé tầu, Ba-ri đến đó ngõ hầu dung thân.
Miền đông, năm 1946
TÌNH YÊU
Ta có tình yêu rất đượm nồng, Yêu đời yêu lẫn cả non sông. Ti nh yêu chan-chứa trên hoàn-vũ, Không thể yêu riêng khách má hồng.
Nếu khách má hồng muốn được yêu, Thì trong tâm chí hãy xoay chiều. Hướng về phụng-sự cho nhơn-loại, Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
Ta đã đa mang một khối tình, Dường như thệ-hải với sơn-minh. Tình yêu mà chẳng riêng ai cả, Yêu khắp muôn loài lẫn chúng-sinh.
Miền đông, năm 1946
(Một thiếu-nữ ở Sàigòn thầm yêu Đức Thầy trong khi Ngài còn ẩn lánh V.M và Pháp: thấy vậy, Đức Thầy bèn viết ba bài thi trên dây để cảnh tỉnh cô ấy).
LẤY CHỒNG CHỆT
Lúc Đức Thầy đang ẩn lánh 1946, Ngài có gặp một cô gái Việt lấy chồng Ngô. tức cảnh, Ngài có làm bài thi sau đây (dùng biệt-hiệu Hoài-Việt):
Cô ơi, nước Việt-Nam thiếu gì trai trẻ, Mà vội đi lấy lẽ "ba Tàu" ?! Của tiền quí báu là bao, Đem tuổi muôi tám so vào bốn mươi? Rồi muôi tánh biếng lười mê ngủ, Để ngày kia ủ-rủ đau thương. Khi ba Tàu xách gói hồi hương, Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ-thẩn. Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận, Cô vì chàng mà bẩn tiết-trinh. Cô tủi thân, cô lại bất bình, Nhưng muộn quá, tuổi xuân không trở lại. Trông tương-lai cô đầy sợ hãi, Hoa úa tàn người lại rẽ khinh. Cô tiếc rằng phải tuổi còn xinh (xanh), Cô sẽ chọn người chồng Nam-Việt. Ở trong hàng thanh-niên, thanh-niết, Tuy nghèo hèn mà biết thỉ chung. Yêu-đương nhau đến phút cuối cùng, Vợ chồng ấy mới chân hạnh-phúc. Ta là khách phương xa tá-túc, Thấy sự đời vẽ khúc văn-chương. Thấy đời cô chìm-đắm trong gió sương. Than ít tiếng gọi hồn chủng-loại. Việt-Nam! người Việt-Nam mau trở lại! Yêu giống nòi có phải hơn không? Dầu sao cũng giống Lạc-Hồng!
Miền đông, năm 1946
TUYÊN-NGÔN của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI Do Đức Huỳnh Thủ-Lãnh công-bố ngày 21-9-46 (Theo bổn của B.C.H. Liên Tỉnh Dân-Xã M.T.N.V.) 1947-1949
Đảng VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI (gọi tắt là Việt-Nam Dân-Xã Đảng) thành-lập ngày 21 tháng 9 năm 1946, do sự thỏa-thuận và đoàn-kết giữa nhiều đoàn-thể ái-quốc (khang-chiến, cần-lao tôn-giáo và chánh-trị).
Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng quốc-gia tranh-thủ sự tự-chủ hoàn-toàn của dân-tộc, củng-cố nền độc-lập quốc-gia và cấu-tạo xã-hội Việt-Nam mới.
Sở dĩ Đảng đặt vấn-đề độc-lập quốc-gia trước các vấn-đề khác là vì:
1/ --Trên lập-trường quốc-tế, nước Việt-Nam có được độc-lập , dân-tộc Việt-Nam mới được sống bình-đẳng với dân-tộc khác; dân-tộc bình-đẳng nhau mới chủ-trương được dân-tộc hiệp-lực, mới kiến-thiết được hòa-bình xác-thực cho thế-giới.
2/ --Dân-tộc Việt-Nam được tự-chủ và mạnh mới tránh khỏi sự chi-phối của đế-quốc chủ-nghĩa để thi-hành một cách có hiệu-quả những biện-pháp chánh-trị và kinh-tế, đem lại hạnh-phúc cho các tầng lớp dân-chúng.
Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng dân-chủ, chủ-trương thiệt-thi triệt-để nguyên-tắc chánh-trị của chủ-nghĩa dân-chủ: "chủ-quyền ở nơi toàn-thể nhân-dân".
Đã chủ-trương "Toàn dân chánh-trị" thế tất đảng chống độc-tài bất cứ hình-thức nào.
Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng cách-mạng xã-hội, chủ-trương tổ-chức nền kinh-tế theo nguyên-tắc chủ-nghĩa xã-hội: không để giai-cấp mạnh cướp công-quả của giai-cấp yếu, làm cho mọi người đều được hưởng phúc-lợi cân-xứng với tài-năng và việc làm của mình; những người tàn-tật yếu-đuối thì được nuôi dưỡng đầy-đủ.
Đặc điểm của Việt-Nam Dân-Xã Đảng là, trong giai-đoạn hiện tại, không chủ-trương giai-cấp đấu-tranh giữa dân-tộc Việt-Nam vì lẽ ở xã-hội Việt-Nam hiện thời , trên 80 năm bị-trị, chỉ có một giai-cấp bị "tư-bản thực-dân" bốc-lột.
Muốn tránh khỏi giai-cấp tranh-đấu về sau, thì sự cấu-tạo "xã-hội Việt-Nam mới" phải căn-cứ nơi những yếu-tố không cho sanh-trưởng giai-cấp bốc-lột và chỉ trợ-trưởng một giai-cấp một, túc là giai-cấp sanh-sản.
CHƯƠNG-TRÌNH của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI Do Đức Huỳnh Thủ-lãnh công bố ngày 21-9-46 (Theo bổn của B.C.H. Liên Tỉnh Dân-Xã M.U.N.V.) 1947-1949
I .-- CHÁNH-TRỊ
Đối ngoại: Căn cứ vào chánh-sách (1) của Liên-Hiệp-Quốc (O.N.U.) và sự bảo-vệ chung nền hòa-bình, cọng-tác với các dân-tộc khác trên lập-trường tự-do và bình-đẳng. Tranh-đấu giải-phóng dân-tộc, đem lại độc-lập cho nước nhà. Thừa-nhận quyền dân-tộc tự-quyết của các dân-tộc nhược-tiểu. Đoàn kết với các dân-tộc ấy để chống đế-quốc xâm-lăng. Đối nội: Nước Việt-Nam có một ba bộ Trung-Nam-Bắc gồm một. Củng-cố chánh-thể Dân-Chủ Cọng-Hòa bằng cách đảm-bảo tự-do dân-chủ cho toàn dân. Ủng hộ Chánh-Phú Trung-Ương về mặt tranh-thủ thống-nhứt và độc-lập. Liên-hiệp với các đảng-phái để chống họa thực-dân. Chủ-trương "toàn-dân chánh-trị" Chống độc-tài bất cứ hình thức nào. (1) có bản chép là: căn cứ vào hiến chương của Liên-Hiệp-Quốc (charte des Nations unies).
II.-- KINH-TẾ
Nguyên-tắc chung: --Trọng quyền tư-hữu tài-sản đến một độ không có hại đến đời sống công-cộng. --Dự-bị: Một phần xí-nghiệp quốc-gia (Secteur de I'Etat), Một phần xí-nghiệp quốc-hữu-hóa (Secteur nationlisé). Một phần tự-do cho tư-nhân và ngoại-kiều (secteur libre pourr Viêtnamiens et Etrangers). --Thi-hành những biện-pháp không cho bốc-lột công-nhân. Nông-nghiệp: Di dân để mở đất hoang. Lập đồn-điền quốc-gia, lập-làng kiểu-mẫu theo chủ-nghĩa xã-hội đồn-điền. Mua lại đồn-điền bị tập-trung quá độ để bán lại cho nông-dân hoặc để cho quốc-gia. Lập bình-dân ngân-quỹ và lập hợp-tác-xã sản-xuất để giúp nông-dân mua dụng-cụ và máy-móc (cày, gặt, vận-tải...), hợp-tác-xã để tránh nạn trung-gian. Phổ-thông khoa-học để gia-tăng sản-xuất nông-nghiệp, chăn-nuôi, thủy-lợi, lâm-sản... Công-nghệ: Mở-mang khí-cụ cần-thiết cho sự khuếch-trương nền kinh-tế quốc-gia. Lần-lượt phát-triển kỷ-nghệ cần-yếu, bắt đầu từ kỷ-nghệ nhẹ. Thương-mãi :
Lập hợp-tác-xã tiêu-thụ bán vận-dụng cần-thiết từ thành-thị, từ làug. Tài-chánh:
Lập Ngân-hàng quốc-gia. III.-- XÃ-HỘi Bài-trừ thuốc phiện, rượu mạnh, cờ-bạc, mãi-dâm, tham-ô. Thi-hành triệt-để luật xã-hội. Cải-thiện và nâng cao đời sống tinh-thần và vật-chất của dân cày và thầy thợ bằng cách mở thật nhiều cơ-quan y-tế, giáo-dục, cứu-tế, nhà bảo-sanh, ấu-trỉ viện, nhà dưỡng-lão, nhà-thương, trường-học, nhà hát-bóng... làm cho dân cày cũng hưởng được những ích-lợi của khoa-học như thầy thợ ở đô-thị. IV.-- VĂN-HÓA Bài-trừ văn-hóa nô-lệ. Sơ-học, tiểu-học cưỡng-bách và vô-phí. Giáo-dục chuyên môn, tổ-chức du-học, cấp học-bổng. Lập cơ-quan điều-hướng nghề-nghiệp. V.-- THANH-NIÊN Tổ-chức thanh-niên thành đoàn-thể và huấn-luyện cho thành người thích-ứng với thời-đại mới. Mở quán, trạm, nhà hội, sân vận-động cho thanh-niên. VI.-- BINH-BỊ Thành-lập một đội binh phòng-vệ. Mở lớp dự bị quân-sự phòng-vệ từng làng trong một thời hạn ngắn. Mở trường đào-tạo sĩ-quan, gởi võ-quan cao cấp đi tập-sự ở ngoại-quốc. Mở lớp huấn-luyện đặc-biệt cho sĩ-quan và quân-sĩ của các đạo quân muốn gia-nhập đạo binh thường-trực quốc-gia.
TẾ CHIẾN-SĨ TRẬN VONG Ở VƯỜN THƠM
Trên linh-tọa hương trầm nghi-ngút, Tấc lòng thành cầu chúc vong linh. Sa-trường hỡi các sĩ-binh, Vườn Thơm tuyệt mạng hiến mình non sông. Thiệt chẳng hổ giống-dòng Nam-Việt, Tiưng nêu cao khi-tiết Lạc-Hồng. Đã mang lấy nợ non sông, Quyết lòng báo quốc tồn vong sá gì. Gương yêu nước đáng ghi đáng nhớ, Chí hy-sinh nhắc-nhở mai sau. Sống không hổ kiếp anh-hào, Không ham tiền bạc sang giàu cá-nhân. Thân chiến-sĩ vì dân vì nước, Vì tự do hạnh-phước đồng-bào. Bao nài nguy hiểm gian lao, Một năm kháng-chiến ra vào chông-gai, Bôm, đạn thét không phải tâm ý, Súng gươm rền nung chí hùng anh. Quyết đem xương máu hy-sanh, Hy-sanh cứu nước rạng danh muôn đời. Thù giặc Pháp làm người phải trả, Trừ tham quân bởi quá ngang-tàng. Nước mất đâu dễ ngồi an, Mượn gươm Lê, Lý dẹp tan quân thù. Ngày hôm ấy tàn thu sương đượm, Quân Pháp đem lực-lượng tấn-công. Máy bay, tàu thủy, súng đồng, Lục quân cơ-khí quyết lòng hại dân. Chúng gặp phải liên-quân anh-dũng. Hạ phi-cơ, tuốt súng, lấy bôm. Quanh tàu vây chặt mấy vòng, Cả kinh giặc Pháp phục tòng rút lui. Phân rủi-ro riêng xui mạng bạc, Khiến anh-hùng cởi hạc xa bay. Nước non đang thiếu anh-tài, Tử thần vội cướp đưa ngay chầu Trời. Hồn tử-sĩ nghe lời than tiếc, Trừ tham quân tận diệt xâm-lăng. Nam binh sát khí đằng đằng, Thề-nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi. Kẻ chết đã yên rồi một kiếp, Người sống còn tái tiếp noi gương. Lòng thành thắp một tuần hương, Vái hồn liệt-sĩ bốn phương tựu về. Nơi làng vắng cam bề đơn giản, Lễ mon nầy trước án bày ra. Hiển-linh xin chứng gọi là...
Quéo-Ba, ngày 1-10-46 (BínhTuất)
CỤ PHẠM-THIỀU MỜI ĐỨC THẦY THAM-CHÁNH
Mưa gió thâu canh mãi dập-dồn, Âm-u tràn ngập cả càn-khôn. Hỡi ai thức ngủ trong đêm ấy, Có thấu tai chăng tiếng quốc-hồn?
Sao còn khoắc-khoải nhớ hiềm xưa? Trang sử chùi đi những vết nhơ. Gìn-giữ tim son không chút bợn, Mặc tòa dư-luận thấu hay chưa.
Sao còn lãnh đạm với đồng bang, Toan trút cho ai gánh trị-an? Thảm kịch "tương tàn" chưa hết diễn, Long-Xuyên Châu-Đốc lụy muôn hàng.
Sao còn ngần-ngại chẳng ra tay, Trước cảnh xâm-lăng cảnh đọa-dày? Ngọn lửa binh đao lan khắp đất, Phật Trời soi thấu cũng châu mày.
Chẳng áo cà-sa, chẳng chiến-bào, Về đây tham-chánh mới là cao. Non sông chờ đợi người minh-triết, Chớ để danh thơm chỉ Võ-Hàu.
TRƯỜNG-PHONG (biệt hiệu của cụ Phạm-Thiều)
ĐỨC THẦY họa:
Những nỗi đau thương mãi dập-dồn, Càng nghiều luân-lạc lại càng khôn. Lặng nhìn thế sự nào ai ngủ! Chờ dịp vung tay dậy quốc-hồn.
Từ-bi đâu vướng mối hiềm xưa, Nhưng vẫn lọc-lừa bạn sạch nhơ. Nếu quả tri-âm tri-ngộ có, Thì là hiệp lực hiểu hay chưa?
Nhìn sang Trung-quốc khách lân bang, Cứ cố xỏ ngầm sao trị an? Nếu thiệt hai bên đồng hiệp trí, Kẻ gây thảm kịch phải qui hàng.
Lắm kẻ chực hờ đặng phỗng tay, Mà ao chánh-sách bắt dân dày. Vẫn còn áp-dụng vì phe đảng? Chẳng muốn xông ra sợ cháy mày!
Thà ở trong quân mặc chiến-bào, Ngày qua sẽ biết thấp hay cao. Nào ai đem sánh mình minh-triết, Mà dám lăm-le mộng Võ-Hầu
HOÀNH-ANH (biệt hiêu của Đ.T.)
Miền-Đông, ngày 1 tháng 10-1946
ĐỨC HUỲN GIÁO-CHỦ TUYÊN-BỐ
LỜI TÒA-SOẠN (Báo QUẦN-CHÚNG ngày 14-11-46)-- Ông Huỳnh-Phú-S...tức là Giáo-Chủ Phật-Giáo Hòa-Hảo, Người đã có một lịch-sử chánh-trị cận-đại ở Nam-Bộ, người ta đã nói vể Ông rất nhiều. Kế sau nầy các báo đều đăng tin rằng Ông có dự vào U.B.H.C.N.B..
Nhớ lại đoạn đường đã qua, nhiều người phân-vân.
Để trả lời chung, hôm nay ông Ông Huỳnh-Phú-S...nhờ chúng tôi đăng bài tuyên-bố để trả lời: "Vì sao tôi tham-chánh". Chúng tôi sẵn-sàng đưa ra trước dư-luận :
Tháng tám năm 1946, Phát-xít Nhựt đầu hàng không điều-kiện. Tin ấy bay ra làm cho tất cả dân-chúng Việt-Nam từ nhà lãnh đạo cách-mạng cho đến đại-chúng cân-lao, mọi người đều nhận thấy một ánh sáng của quê hương chói dậy. Giờ thiêng-liêng của lịch-sử đã đến; sự hoạt-động bí-mật nhương chỗ cho sự hoạt-động công-khai.
Tôi, một để tử trung-thành của đạo Phật, một chiến-sĩ trì chí của phong-tráo giải-phóng dân-tộc Việt-Nam sẳn-sàng cùng đoàn-thể mình cương-quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương-quyết tranh-đấu để bảo-vệ quyền-lợi chung cho nòi giống.
Tiếc vì một hoàn-cảnh đặc-biệt đau thương buộc tôi phải dung mình trong non cao rừng thẳm. Sự độc-đoán, sự ngờ-vực đã đưa đến chỗ chia-ly, mà kẻ thức-thời nhìn qua sự thật khộng khỏi ngậm-ngùi than-trách. Một năm trời biến-cố, dấu tang thương gieo khắp trời Nam, song cảnh cam-go ấy tôi muốn tìm phương cứu chữa, nhưng khốn thay, bị đứt mối liên-lạc với Trung-Ương và các đồng-chí, nên đàng nuốt hận và nhìn bọn xâm-lăng tung-hoành trong đất nước. Lúc ấy tất cả quần-chúng của tôi, Ban chỉ-huy cao cấp không còn. Ban chỉ-huy địa-phương tan rã, họ bơ-vơ như bầy chim lạc đàn không nơi nương dựa, mà còn phải trải qua những giờ phút hãi-hùng, rồi nén lòng chờ đợi cứu tinh, rồi tuyệt vọng. Khi quân giặc đến, không ai chỉ đạo cho họ tranh-đấu, nỗi lòng hoang-mang xui cho những phần-tử quá trung-thành mà nồng-nổi không dằn được khí phẫn-uất nên họ đi tới chỗ xung-độ vô ý-thức.
Tháng 2 năm 1946, tôi vừa bắt được liên-lạc và hiểu rõ tình-trạng đau đớn trên thì hền dùng đủ biện-pháp làm cho cuộc xô-xát âm-thầm chấm-dứt. Hơn nửa, trên các mặt trận, cũng cố-gắng tìm cách ủng-hộ chiến sĩ về hai phương-diện vật-chất lẫn tinh-thần, đồng hời xếp đặt các chiến-sĩ mình vào một tồ-chức quân-sự, chen vai thích cánh với đồng-bào trong cuộc kháng-chiến.
Hôm nay, nhận rõ cuộc tranh-đấu cho tổ-quốc còn dài và cần nhiều nỗ lực, hưởng-ứng với tiếng gọi đại đoàn-kết của Chánh-phủ Trung-Ương, tôi quyết-định tham-gia hành chánh với những mục-đích nầy:
Để tỏ cho quốc-dân và chánh-phủ thấy rằng chúng tôi chủ-trương thống-nhứt lãnh-thổ và độc-lập quốc-gia. Để biểu-dương tinh-thần đoàn-kết của dân-tộc hầu mau đem thắng-lợi cuối cùng. Để tỏ cho các đảng phái thấy rằng chúng tôi không khi nào có những tham-vọng cao sang vương-bá hay vì hềm riêng mà hờ-hững với phận-sự cứu-quốc. Biểu-lộ tấm lòng thành-thật ấy, tôi chỉ nhận một nhiệm-vụ cần-thiết, hạp với hoàn-cảnh và năng-lực mình, cố-gắng giàn-xếp về hành-chánh và quân-sự để củng-cố và tăng-cường lực-lượng của quốc-gia. Đối với toàn thể tín-đồ Phật-Giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ-tử trung-thành của Đức Phật Thích-Ca, tôi tin chắc rằng giáo-lý giải-thoát chúng-sanh chẳng những được truyền-bá ở Thiền-lâm mà còn phải thực-hiện trên trường chánh-trị.
Đối với các đồng-chí hiện đang cùng tôi đeo-đuổi một chương-trình Dân-Chủ Xã-Hội, tôi tuyên-bố luôn luôn sát cánh với họ để chung lo gầy-dựng một nước Việt-Nam công-bình và nhơn-đạo, một nước Việt-Nam tương-xướng với các nước Dân-chủ tiền-tiến trên hoàn-cầu.
ÔNG HỒN-QUYÊN (Ở SÀIGÒN) VÀO CHIẾN-KHU PHỎNG-VẤN ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ
Vấn.- Ông có thể cho chúng tôi biết về tổ-chức quân-sự và hành-chánh trong đoàn-thể của ông chăng?
Đáp.- Tôi không thể nói cho ông rõ tất cả những chi-tiết của sự-tổ chức ấy. Nhưng về đại-cương tôi có thể nói rằng cách chừng 6 tháng nay, những chiến-sĩ trong hành ngũ cũa tôi, khi họ nghe tôi còn sống, họ bắt đầu tập họp lại thành những bộ-đội kháng-chiến ở khắp các tỉnh miền Tây. Tuy không trực-tiếp liên-lạc với Chánh-phủ Trung-Ương nhưng họ cũng lấy tên là Vệ-Quốc Đoàn để tỏ rằng lúc nào họ cũng theo sự hướng-đạo của Chánh-Phủ mà tranh-đấu. Từ nay về sau các bộ-đội ấy liên-lạc trực-tiếp với các khu-trưởng trong vùng của họ để nối hệ-thống thành đạo quân chánh-qui của nước Việt-Nam.
Về hành-chánh chúng tôi không co tổ-chức nào riêng biệt. Chỉ có những tổ chức để ủng-hộ cuộc kháng-chiến trong các làng-mạc. Hiện thời chúng tôi đã ra chỉ-dụ cho các tổ-chức ấy phải xem xét chương-trình tổ-chức chung của Chánh-Phủ để sáp nhập vào các cơ-quan chánh-thức của Chánh-Phủ.
Vấn.- Chúng tôi nghe nói hình như ở Hậu-Giang còn vài cuộc rắc-rối do tín-đồ ông gây ra. Có phải vậy không?
Đáp.- Từ trước tới nay, tôi đã nghe rất nhiều lời phê bình của một số đồng-bào về những hành-động vô ý-thức của một nhóm tín-đồ tôi. Hôm nay nhơn-dịp gặp ông, tôi xin thanh-nhinh và đính-chánh về những lời đồn-đãi đó. Tôi quã quyết với ông rằng: Tất cả tính-đồ có học-thức và những người hiều biết được rõ-ràng một vài phần trong giáo-lý chơn-chánh của đạo Phật thì trong thời đã qua họ đã thiệt hành được lời dạy bảo của Đức Phật là lấy lòng nhơn hậu mà đối-đãi với sự thù-oán măc dầu trong đó họ bị đau khổ nhiêu.
Còn riêng về những cuộc xô-xát vừa qua là do sự phẫn-uất của một nhóm võ-sĩ mà tôi đã kết nạp vào hàng ngũ Bảo-An Đội, bời vì cửa Phật luôn luôn mởi rộng cho bất cứ một chúng-sanh nào muốn trở về với Đạo mà tôi thấy họ rát cần-thết cho phong-rào tranh đấu để giải-phóng dân-tộc.
Hiện nay, nếu quả thật như lời ông, còn một vài cuộc rắc rối là do những bọn bất lương mà trong tất cả thời loạn nào cũng có, mượn danh nghĩa của ông Trần-văn-Soái tự là Năm-Lửa để bóc lột lương dân. Nhưng chính ông Năm Lửa đang nỗ-lưc tiễu-trừ bọn ấy và cũng đang phải đối-phó với những bọn phản-động trong hành ngũ binh-đội Pháp, sau ngày 30-10, ở một vài nơi còn tiếp-tục khủng bố chúng tôi và dân-chúng, như 16 người trong hàng ngũ chúng tôi bị bắn và đánh chết trong lúc ban đêm tại Lấp-Vò chẳng hạn. Còn toàn thể đều tuân theo lịnh ngưng-chiến theo tinh-thần của Thỏa-Hiệp-Án14-9.
Vấn.- Vậy sau khi ông tham-chánh tình-hình tín-đồ của ông ở Hậu-giang thế nào?
Đáp.- Một năm qua, tôi mất hẳn liêc-lạc trong sáu tháng đầu. Từ tháng hai, khi tôi có vài liên-lạc gián-tiêp thì những xung-đột dữ-dội ngừng dứt rõ-rệt. Tuy vậy, không tránh khỏi vài sự xung-đột nhỏ giữa hai bên. Nó có tánh-cách cá-nhơn hơn là tánh-cách toàn-thể như trước, vì tôi và những huất-lịnh nghiêm-trị của một bên không được hiệu-lực toàn-vẹn. Theo những báo cáo mấy hôm nay thì sau khi tôi tham chánh, quần-chúng của tôi bắt đầu có một sự tín-nhiệm ở nơi sự hiệp tắc giữa đôi bên và sự tham-chánh của tôi cáo-chung những tuyên-truyền láo-khoét, phao-vui từ trước tới giờ. Những sự tuyên-truyền dó đã làm cho toàn-thể bị tủi nhục.
Vấn.- Trong việc tham-chánh, ông có đại-biểu-cho một chánh đảng nào không?
Đáp.- Về dĩ-vãng, sự hoạt-động của tôi xuất phát trong địa-phận Phật-giáo và kết nạp được hơn triệu tín-đồ. Thể theo tinh-thần đại đoàn-kết của toàn dân, tôi thay mặt cho đám quần chúng đó mà tham-gia hành-chánh về mặt tinh-thần. Nhưng trong sự hoạt-động để kiến-thiết quốc-gia về mặt chánh-trị thì tôi sẽ là đại-biểu cho chánh đảng nào có một chương-trình dân-chủ xã-hội.
Vấn.- Như vậy xin ông cho biết lý-tưởng chánh-trị của ông có liên-quan với giáo-lý nhà Phật không?
Đáp.- Theo sự nhận-xét của tôi về giáo-lý nhà Phật do nơi Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã khai-sáng lấy Chủ-nghĩa từ-bi bác-ái đại-đồng đối với tất cả chúng-sanh làm nòng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách-mạng triệt-để về tư-tường; vì những câu "Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật-tánh"và "Phật cũng đồng nhứt thể bình-đẳng với chúng-sanh" Đã có những sự bình-đẳng về thể-tánh như thế mà chúng-sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình-độ giác-ngộ của họ không đồng-đều, chớ không phải họ không tiến-hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn-gian nầy còn có chúng-sanh tiền-tiến áp-bức những chúng-sanh lạc-hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo-lý chơn-chánh ấy. Giáo-lý đó, Đức Thích-Ca Mâu-Ni không áp-dụng được một cách thiết-thực trong đời của Ngài là do nơi hoàn cảnh xã-hội của Ấn-Độ xưa không thuận-tiện. Thế nên Ngài chỉ phát-dương cái tinh-thần đó mà thôi. Ngày nay, trình-độ tiến-hóa của nhơn-loại đã tới một mực khả-quan, đồng thời với tiến-bộ về khoa-học thì ta có thể thực-hành giáo-lý ấy để thiệt-hiện một xã-hội công-bằng và nhơn-đạo. Thế nên với cái tâm hồn bác-ái, từ-bi mà tôi đã hấp-thụ, tôi sẽ điều-hòa với phương-pháp tổ-chức xã-hội mới, để phụng-sự một cách thiết-thực đồng-bào và nhơn-loại.
Vấn.- Trước khi từ giã, xin ông cho biết đời sống ở bưng-biền có ảnh-hưởng chi tới sự hành Đạo của ông chăng?
Đáp.- Với sự hành Đạo của tôi cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành Đạo đúng theo ý-tường xác-thực của nó là làm thế nào phát-hiện được những đức tánh cao cả và thực-hành trên thiệt-tế bằng mọi biện-pháp để đem lại cái phước-lợi cho toàn thể chúng-sanh thì dó là sự thỏa-mãn trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy-tiện về vật-chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết.
(Trích lục báo "NAM-KỲ" ngày 29-11-1946)
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:19 | |
| - 1947:
Những bài sáng-tác năm Đinh-Hợi (1947)
NĂM ĐINH-HỢI (1947)
ANH PHIỆT XƯỚNG: (1)
Non nước ngửa nghiêng vẫn ngủ ỳ? Ai ôi tỉnh dậy, dậy rồi đi. Đi lo sự nghiệp trai thời loạn, Khỏi thẹn người xưa lúc gặp thì.
ĐỨC THẦY họa:
Lặng-lẽ tính toan đâu ngủ ỳ! Chỉnh-tu binh mã để rồi đi. Khi đi muông sói đều tan-vỡ, Rõ mặt hùng-anh tạo thế thì....
Miền-Đông, mùa xuân năm 1947
TẶNG CHIẾN-SĨ BÌNH-XUYÊN
Trước khét tiếng trong làng dao búa, Lúc quân thù thống-trị nước non Nam. Khách giang hồ tụ ngũ tùng tam, Quyết khuấy nước chọc trời cho thỏa chí. Dân-chúng trách đám người không biết nghĩ, Cứ quanh năm suốt tháng phá hương-thôn. Vì an ninh giặc Pháp cử binh rồn, Khi sa lưới phải lao tù nơi hải đảo. Rồi vượt biển bao nài cơn gió bão, Về quê nhà tánh cũ cứ nghinh-ngang.
Bài này của anh mười Phiệt, thuộc nhóm Bình-Xuyên (làm đã từ lâu) đọc có ý kích-thích Đức Thầy trong khi Ngài đang nằm nghĩ trưa. Đức thầy liền ứng khẩu đáp họa liền làm cho anh em Bình-Xuyên vỗ tay hoan-nghinh nhiệt liệt.
Lúc hoàn-cầu tiếng súng nỗ vang, Bừng tỉnh giấc bàng-hoàng suy nghĩ lại. Từ thở bé bao phen tang hải, Khí kiêu-hùng đem lại những chi đâu? Nhìn non sông đượm vẻ âu sầu, Lòng yêu nước bắt đầu tim sóng dậy. Cờ độc-lập Bắc, Nam, Trung phe phảy, Trước gió chiều hãng-diện với lân bang. Bỗng phương Âu vô số bọn tham tàn, Tàu, bôm, súng đem sang non nước Việt. Ách nô-lệ dân ta đà chán biết, Nên quyết lòng nổi dậy chống xâm-lăng. Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng: Thà cam chết, không làm dân bị trị. Bọn cách-mạng giả danh đang rối trí, Khu Bình-Xuyêt tiếng súng nổ vang tai. Đoàn dũng binh tiếng đếm một hai,... Nhắm hướng có quân thù xông lướt đến. Đạp thành lũy cứu giống nòi yêu mến, Làm rơi đầu, đổ máu biết bao ngàn. Tiếng anh-hùng nổi dậy khắp giang-san, Thay những tiếng bạo-tàn cơn thất chí. Xông trận địa nêu gương trang dũng-sĩ, Tự hào rằng Nam-Việt kém chi ai. Ngàn muôn năm ghi nhớ khách anh-tài, Trong sách sữ tiếng Bình-Xuyêt luôn chói rạng.
Miền-Đông, ngày 10-1-1947
TẾT Ở CHIẾN-KHU
Tăng bạn ngày xuân chén rượu nồng, Uống rồi vùng-vẫy khắp Tây-Đông. Đem nguồn sống mới cho nhơn loại, Để tiến, tiến lên cõi đại-đồng.
Rượu xuân càng nhắp cằng say, Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng.
Ngày tết năm nay ở chiến-khu, Bưng-biền gió lốc tiếng vi-vu. Xa xa súng nổ thay trừ-tịch, Dân Việt còn mang nặng mối thù,
Mối thù nô-lệ trả chưa xong, Pháp-tặc còn trêu giống Lạc-Hồng. Dùng thói dã-man mưu thống-trị, Thì ta quyết chiến dễ nào không!
Dễ nào không dám gắng hy-sinh, Giữ vững non sông đất nước mình. Tự lập nghìn xưa gương chói rạng, Anh-hùng khởi xuất chốn dân-binh.
Dân-binh Nam-Việt mấy ai bì? Không súng tầm-vông cũng vác đi. Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh, Liều thân cứu nước lúc lâm nguy.
Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn, Lòng mang Đại-Nghĩa để thân khinh, Máu đào xương trắng phơi đầy nội, Quyết đổi tự-do mới thỏa tình.
Thỏa tình được sống dưới trời Đông, Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng. Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt, Từ đây non nước thoát nguy vong.
Bình-Hòa (Chợlớn) ngày 2-1Đinh-Hợi (1947)
KỶ-NIỆM RỪNG CHÀ-LÀ
Rừng Chà-Là, rừng Chà-Là vạn tuế...! Thành lũy ấy chông gai bao xiết kể, Muôn quân thù đâu dám dẫm chơn vô. Đây là nơi tướng Việt thiết mưu-mô, Chờ cơ-hội quét tan loài xâm lược. Tranh độc-lập để bảo-tồn non nước, Biết bao lần chúng giặc phải cuồng-điên. Vì đem quân cả phá Bình-Xuyên, Chạm trán với chiến binh hùng-dũng. Một năm qua bền gan không nao-núng, Dù thảo-lương thiếu túng chịu gian-nan. Nơi riing xanh chịu lắm cảnh cơ-hàn, Mưa nắng táp gió sương dầu-dãi. Nước Nam-Việt ở ven bờ Nam-hải, Ngàn xưa từng chống lại họa xâm-lăng. Bạch-Đàng Giang công-nghiệp ấy ai bằng, Quân Việt ít đánh tan Mông-Cổ mạnh. Nay giặc Pháp buông lung kiêu-hãnh, Ỷ-lại vào tàu-chiến với phi-cơ. Nơi sa-trương chúng gặp cảnh bất ngờ, Sức kháng-chiến ngàn xưa nay sống dậy. Nơi Hành-dinh gió vàng phe phảy, Khách viễn phương mươn lấy tờ hoa. Vài câu văn thô kịch gọi là, Để kỷ-niệm chốn "Bình-Xuyên" anh-dũng.
H.H. tặng chiến-sĩ Liên-khu Bình-Xuyên (2-47)
ÔNG TRẦN-VĂN-SOÁI và ÔNG NGUYỄN-GIÁC-NGỘ Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu-Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra, tôi và ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên-nhân còn điều-tra; trong mấy anh em phòng-vệ không biết chết hay chạy đi. nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng náo động.
Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân y tại chỗ.
Sáng nay tôi sẽ cùng ông Bửu-Vinh điều tra kỹ-lưỡng rồi về sau.
Phải triệt-để tuân lịnh.
Ngày 16-4-47; 9 giờ 15 đêm Ký-tên: S.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:20 | |
| - 1948:
NHỮNG BÀI SAU ĐÂY KHÔNG RÕ ĐỨC THẦY VIẾT TẠI ĐÂU VÀ HỒI NÀO
LO NƯỚC Nước Việt trẻ già mãi ngóng trông, Ngày nào hưng phục cõi trời Đông. Lẽ đâu Tạo-hóa riêng cay độc, Đày khắc mãi chi giống Lạc-Hồng.
NỢ NƯỚC
Một phen nợ nước lâm đền, Đạo làm thần-tử cho bền chí trai. Thừa cơ xoay trở gót hài, Vung gươm Thần-Thánh dẹp loài cầu phiên.
KHÔNG KHÔNG
Đại đạo giáo dân, dân bất tri, Khai năng bạch phát đãi hà thi. Công-danh phú-quí chung huờn mộng. Kỳ-cá miên qui thố nhứt kỳ.
TỈNH GIẤC MƠ
Một giấc mơ-màng, một giấc say. Tỉnh hồn mới biết cuộc trần-ai. Trần-ai rày đã xa phiền lụy, Rán bước qua truông kẻo nữa hoài.
Nợ thế âu toan tròn nợ thế, Đường tu sớm liệu vẹn đường tu.
SẦU BÁ TÁNH
Cúi lậy Tây-phương chốn Phật-đàn, Vưng lời truyền dạy các chư bang. Âu-sầu bá tánh gieo tình ác, Bị lũ con buôn quá tráo hàng.
GÌN TỤC CỔ
Cũng dòng dân Việt cũng màu da, Sao lại chê bai thói tục nhà. Phong-hóa lễ-nghi trề nhúng bỏ, Gia nghiêm nghĩa tiết choán Nam-gia!
LỐ VỪNG HỒNG
Khói tỏa mây ung sương mịt mù, Vừng hồng vừa lố cảnh trời thu. Ruộng sâu đã cấy chờ bông trái, Thì sẽ ấm no thoát ngục tù.
Ngục tù giam hãm mấy mươi năm, Nhờ lại quặn dau khúc ruột tằm. Rày gặp mưa nhuần ân Thánh-đế, Tưới cho trăm họ bớt mê lầm.
XÉ-XÂU NHAU
Gẫm thấy cuôc đời xô-xát mãi, Dắt tay nhau đến bãi tha-ma, Gió Á mưa Âu bùng sấm dậy, Hãi hùng tranh chiến xé xâu nhau. Hồng-trần trở lại màn u-ám, Khắp cả chúng-sanh nhuộm máu đào.
CHUYỂN PHÁP-LUÂN
Lòng thương lê-thứ đáo ta-bà, Thừa chuyển pháp-luân dụng khuyến ca. Cảnh tỉnh người mê về cõi ngộ, Dạy răn kẻ tục vượt nê-hà.
LÚC TA TỈNH
Tỉnh giấc mơ màng cảnh mộng hoa. Tỉnh lòng lê-thứ chữ nhơn hòa. Tỉnh thân tầm đạo xa trần-tục, Tỉnh chuyện gần xa tiếng thiết-tha.
Tỉnh biết đời nay lỗi đạo hằng, Tình tâm già trẻ bớt làm nhăng. Tỉnh câu phụ tử tình thâm ấy, Tỉnh hết vạn dân biết thượng tằng.
CHO MỘT VỊ SƠ TÂM
Duyên lành mới gặp cảm tình ông. Rõ việc mở mang giống Lạc-Hồng. Bí hiểm cơ-huyền nơi diệu lý, Nhiệm mầu Phật pháp chốn thần thông. Trau tria nhục thể về nơi cũ, Chùi rửa tim gan một tấc lòng. Cố tưởng ước mơ đòi thạnh trị, Ngặt vì vân bĩ cuồng ngông.
CHÍ THANH CAO
Một thân quyết chí phá lâm tòng, Dắt chúng đời nầy liễu diệu thông. Nhắc nhở con hiền noi tục cổ, Kêu chừng trẻ thảo góc trời đông. Ngày thanh mong tưởng cho mau tới, Đêm vắng ước mơ lộ vẻ hồng. Sẽ được hiệp hòa non phụng gáy, Trung thần thỏa dạ hết chờ trông.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 45120 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Thi Văn November 2nd 2019, 14:20 | |
| - 1949:
VÀI TOA THUỐC NAM mà Đức Thầy đã dùng từ năm 1939 để trị bịnh cho bá-tánh thập phương
I.-BỊNH HO
É tía, rau tần, rễ chanh, gừng lùi, lá bưởi, bông thọ, rễ chòi mòi (sao), một xu trắc bá điệp. 2.-BỊNH BAN
Chổi đực, vòi voi, hắc-sửu, rau bợ, rễ chòi mòi, năm thứ đậu, đọt tre mở một nắm (sao chín). 3.-BỊNH THƯỜNG
Lá xoài, lá ổi, lá mít, lá bưỡi, bông trang hay là bông thọ (để sống).
33 TOA THUỐC GIA TRUYỀN MÀ ĐỨC THẦY ĐÃ GIAO CHO ANH EM TÍN-ĐỒ Ở BẠC-LIÊU HỒI THÁNG 6 DL.1945, TRONG LÚC NGÀI ĐI KHUYẾN NÔNG. 1.-CẢM MẠO (thuốc tán)
Xuyên hậu phát 1 lượng, Quản trần bì (sao) 1 lượng, Bạch bì 1 lượng, Xuyên khung (sao) 1 lượng, Sa nhân 1 lượng. Bạch khấu 1 lượng, Bạch trực (sao) 2 lượng, Thương trực (sao) 2 lượng, Cam thảo 2 lượng, Thảo quả 2 lượng, Hoát hương 2 lượng, Thạch cao 1 lượng, Chánh thần khúc 1 lượng. Tán khô để vô ve, mỗi lần uống 1 chỉ với nước gừng, trị nóng lạnh, mới cảm, nhức đầu, thổ tả, đau bụng, ban trái.
2.-CẢM GIÓ (thuốc ban)
Sa sâm 2 chỉ, Kiết cánh 1 chỉ, Phục linh 1 chỉ, Tiền hồ 2 chỉ, Độc huợt 2 chỉ, Sài hồ 2 chỉ, Cam thảo 1 chỉ, Xuyên khung 1 chỉ, Chỉ xát 1 chỉ, Khương huợt 1 chỉ, Sanh cương 2 chỉ. Uống rồi trùm lại chờ đổ mồ hôi.
3.-Cảm ba bốn ngày sắp lên, nửa trong nửa ngoài, nóng lạnh từ hồi, cổ không thông, khô cả nước miếng hoặc làm rét
Sài hồ 3 chỉ, Bạch bì sâm 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ, Thảo quả 3 trái, Chế bản hạ 2 chỉ, Hoàng cầm 3 chỉ, Thương trực (sao) 2 chỉ, Hậu phát 2 chỉ, Gừng sống 4 lát, Uống hai nước.
4.-Ho gió, mới cảm trong mười ngày thì cứ uông
Tử tô diệp 2 chỉ, Bạc hà 2 chỉ, Quế tiện 1 chỉ, Hạnh nhơn 2 chỉ, Sanh cương 5 lát, Trần bì (sao) 2 chỉ, Tang bạch bì 3 chỉ, Đại phúc bì 2 chỉ, Trầm hương tốt (gói riêng) 2 chỉ, Ma hoàng 1 chỉ, Tô tử 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ. Sắc uống hai nước.
5.-Trị bịnh ho vừa phát nóng lạnh dữ lên thì ho dữ-dội ấy là cảm gió vào phổi hóa nóng nhiều.
Sa sâm 3 chỉ, Kiết cánh 2 chỉ , Cát căn 2 chỉ, Chỉ xác (sao) 2 chỉ, Tử tô diệp 2 chỉ, Tiền hồ 2 chỉ, Phục linh cũ 2 chỉ, Nam mộc hương 2 chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ, Chế bản hạ 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ , Sanh cương 5 lát. Uống hai nước,
6.-Ho thuộc về thận
Trạch tả 3 chỉ, Táo nhục 3 chỉ, Thiên môn đông 2 chỉ, Ngưu tất 2 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Lão thục địa 8 chỉ, Mạch môn đông 3 chỉ, Hạnh nhơn 2 chỉ, Phục linh cũ 3 chỉ, Ngũ vị tử 1 chỉ, Mẫu đơn 2 chỉ. Sắc 2 nước vắt nước cốt chia ra 2 phần uống 2 lần.
7.-Ho gió lâu quá mà thuốc nào cũng vô hiệu
Kha tử (nướng cho vàng) 5 chỉ, Cam thảo 2 chỉ . Hai vị nầy chung lại, sắc uống, hiệu nghiệm như thần.
8.-Ho ra huyết ói cả tô, lúc đầu vừa ói ra nó nặng ngực (thượng tiêu)
Đại hoàng tốt (sao rượu cho khô) 2 chỉ, Xuyên hoàng liên 3 chỉ, Huỳnh cầm 4 chỉ. Sắc 2 nước uống 2 lần, cho ỉa đừng sợ (mệt mà bổ). Xổ rồi lại uống thang dưới đây:
Văn thảo (sao) 2 chỉ, Lảo thục địa 8 chỉ, Ngủ vị tử 1 chỉ, Thiên môn đông (khử bỏ tim) 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Phục linh cũ 3 chỉ, Mạch môn đông 2 chỉ, Đơn bì 4 chỉ, Táo nhục 2 chỉ, Đông hoa 2 chỉ.
Hốt 1 thang sắc 2 nước, vắt lấy nước uống 2 lần, uống luôn 3 thang thì hết, nếu uống mà sôi bụng ỉa ấy là lão thục địa, xấu, phải mua thứ tốt.
9.-Đàn bà huyết băng cầm lãi rồi còn đương mệt nhọc lại hóa ho nhiều
Phòng đản sâm 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ, Mạch môn đông (khử bỏ tim) 2 chỉ, Công giao châu 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Lão thục địa 5 chỉ, Đại đương qui 3 chỉ, Phục linh cũ 2 chỉ, Bạch thược (sao) 3 chỉ, Đông hoa 2 chỉ, Ngũ vị tử 1 chỉ, Tam thốc can 2 chỉ, Kỳ ngại khô 1 chỉ. Sắc 2 nước, uống 2 lần. Uống 5 thang mới giảm và hết.
10.-Đàn bà đường kinh đi râm-rỉ cả 10 ngày hay nửa tháng mà không dứt
Tam thốc can 3 chỉ, Viễn chí 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Chánh phục thần 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Chá hoàng kỳ 3 chỉ, Quảng mộc hương (gói riêng không sắc) 6 chỉ, Đại qui đầu 3 chỉ, Tàng táo (sao) 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Long nhãn nhục 2 chỉ. Sắc 2 nước, uống 2 lần, Uống 3 thang thì hết, cữ ăn, hành, tỏi.
11.-Huyết hư, cảm mạo, nóng lạnh, không có mồ hôi, đường kinh quá kỳ không đi
Lão thục đia 5 chỉ, Ba�ch thược 2 chỉ, Đại đương qui 3 chỉ, Tử tô diệp 2 chỉ, Kiết cánh 2 chỉ, Pháp hạ 2 chỉ, Phục linh 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ, Tiền hồ 2 chỉ, Càn cát 1 chỉ, Chỉ xác (sao) 2 chỉ. Sắc 2 nước, chia ra uống 2 lần, Uống 3 thang đổi toa.
12.-Điều hòa huyết, trị huyết nóng đau bụng, nhức mỏi, đường kinh trồi sụt
Lão thục địa 3 chỉ, Xuyên khung 3 chỉ, Chế hương phụ 1 chỉ, Ích mẫu 2 chỉ, Bạch thược 3 chỉ, Đương qui 3 chỉ, Ô dước 2 chỉ, Sanh cương 5 lát. Sắc hai nước uống hai lần.
13.-Điều kinh, đàn bà kinh kỳ trồi sụt, đau bụng nhiều ít không chừng
Trạch tả (sao) 3 chỉ, Táo nhục 2 chỉ, Bạch thược 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Lão thục địa 7 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ, Mẫu đơn 3 chỉ, Phục linh 3 chỉ, Đương qui 3 chỉ. Sắc hai nước uống nhiều thang mới hết.
14.-Thuôc sản hậu (trong 15 ngày mà hóa các chứng bịnh gì cứ uống. Còn trong 8 ngày thì cứ uống chớ ngại chi)
Đương qui vĩ 7 chỉ, Đào nhân 3 chỉ, Cam thảo chá 2 chỉ, Xuyên khung 5 chỉ, Bào cương 2 chỉ. Nước lã một chén, nướt đái 1 chén, sắc còn 7 phân, thêm một chung nước đái vô chén thuốc, thuốc sắc rồi uống ấm. Khi mới đẻ hốt hai tháng, sắc thang trước lấy nước nhứt, lại sắc thang sau lấy nước nhì uống vô, rồi lấy cái xác của 2 thang (sắc rồi) sắc nước nhì cũng như cách trên bảo vậy. Nếu uống liền 4 thang như vậy thì càng tốt.
15.-Thuốc ỉa nước nhiều và nóng nhiều.
Trạch tả 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Trần bì (sao) 2 chỉ, Sanh cương 5 lát, Phục linh 3 chỉ, Biên đậu (sao) 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Sài hồ 3 chỉ, Đại táo 3 trái, Hoài sơn (sao) 3 chỉ. Sắc hai nước uống ấm.
16.-Tỳ vị quá hư lạnh, sanh ra ỉa nước, ăn không vô
Bạch trực (sao) 3 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Hắc phụ tử 3 chỉ, Hắc cương 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Phục linh 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Biên đậu (sao) 3 chỉ, Sanh cương 5 lát. Sắc 2 nước uống 2 lần. Chừng vài thang thì hết ỉa.
17.-Ăn chậm tiêu, sình bụng no hơi, đau bụng, hoặc lạnh tay chơn, ói mửa ỉa ra nước mà không thôi
Phòng đản sâm 4 chỉ, Càn cương 2 chỉ. Hắc phụ tử 2 chỉ, Cam thảo chích 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Hoài sơn (sao) 3 chỉ. Hốt 1 thang sắc 2 nước uống 2 lần, Uống 2 thang đổi toa.
18.-Ăn không tiêu, đau bụng, ngăn ngực nghẹn trong cổ
Phòng đản sâm 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Mạch nha (sao) 2 chỉ, Thần khúc 2 chỉ, Đại táo 3 trái, Phục linh 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Bào cường 1 chỉ, Sơn tra 2 chỉ, Gừng sống 5 lát, Sắc hai nước uống ấm.
19.-Bịnh kiết đi sông nhiều, răng nhiều và ra đàm ít
Bạch thược (sao) 3 chỉ, Xuyên hoàng liên 4 chỉ, Vỏ lựu nướng 5 chỉ. Thương Trực (sao) 4 chỉ. Quảng mộc hương 3 chỉ. Chung lại tán nhỏ, thêm vô một chỉ nhựa bông, tán chung. Uống mỗi lần 1 chỉ. Chừng 3 lần hết bịnh (cần thêm nhiều cho dứt căn). Đàn bà đẻ cũng uống được.
20.-Trị binh uất mói có, xổ êm
Sài hồ 3 chỉ. Đại hoàng 3 chỉ. Sanh cương 4 lát, Chế bản hạ 3 chỉ, Sanh chỉ xác 3 chỉ. Xích thược dược 2 chỉ, Huỳnh cầm 2 chỉ, Đại táo 3 trái. Uống một nước để lâu ước chừng 2 giò xem có đi sông chăng hoặc có sôi ruột mà chưa sông thì uống thêm nước nhì; như có sông mà ít thì uống thêm nửa nước nhì. Uống thuốc xổ thì nên dè-dặt vì bịnh hư dể xổ, bịnh thiệt khó xổ. Vậy nên mình coi thêm bớt cho vừa ý.
21.-Xổ rửa sạch độc cũ, đau lâu uất bón phong nhiều, ung độc ghẻ chốc, nóng trong mình
Phòng phong 2 chỉ, Bạch thược 1 chỉ, Xuyên khung 1 chỉ. Phát tiêu (để riêng) 2 chỉ. Liên kiều 1 chỉ. Kiết cánh 1 chỉ, Ma hoàng 1 chỉ. Hượt thạch 15 phân. Đại hoàng 2 chỉ. Bạc hà 1 chỉ. Cam thảo 1 chỉ. Chi tử 1 chỉ. Huỳnh cầm 1 chỉ. Bạch trực (sao) 2 chỉ. Kinh giái 1 chỉ. Thạch cao 15 phân. Sắc 2 nước uống 2 lần (uống quá sức thuốc có hại).
22.-Thuốc tiêu trị bá chứng như: thũng thực vật, bại xui
Hương phụ tử chế 1 cân (chia 4 phần tẩm muối, tẩm gừng, tẩm nước đái, tẩm giấm trọn đêm, sao cho cháy một chút). Hắc sửu nửa cân (phân nửa sao, phân nửa để sống). Ngũ linh chỉ 1 cân (rửa sạch, tẩm giấm sao cháy một chút). Tạo giác nửa cân (để sống). Bốn vị chế xong đều tán nhỏ, khuấy hồ gạo vò viên bằng hột bắp, mỗi lần uống 30 hoàn với nước trà tống hạ, như uống nhiều bằng hai thì xổ êm, uống ít thì tiêu.
23.-Đau lưng
Trạch tà (sao) 3 chỉ. Mẫu đơn 3 chỉ, Lạo thục địa 7 chỉ, Đỗ trọng (sao muối) 2 chỉ, Táo nhục 2 chỉ, Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Phục linh 3 chỉ, Thục đạn 2 chỉ. Sắc hai nước uống ấm.
24.-Tức và lói ra sau lưng
Sài hồ 4 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Phục linh 4 chỉ. Bạc hà 2 chỉ, Hương phụ chế 3 chỉ, Bạch thược (sao) 4 chỉ, Đương qui 3 chỉ, Cam thảo 1 chỉ. Ô dước 2 chỉ, Sắc hai nước thêm 5 lát gừng sống.
25.-Phong dau mình, nhức mỏi, bổ huyết và hành huyết, bổ khí
Lão thục đia 4 chỉ, Xuyên khung 3 chỉ, Phòng đản sâm 4 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Độc huợt dương 2 chỉ, Xuyên túc đoạn 2 chỉ, Bạch thược (sao) 3 chỉ, Đại qui dầu 3 chỉ, Phục linh cũ 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Chá hoàng kỳ 2 chỉ, Linh tiên 2 chỉ. Sắc 2 nước uống 2 lần. Uống 2 thang nghỉ. Rồi, uống toa thuốc dưới đây:
Độc huợt 2 chỉ, Đỗ trọng (sao) 3 chỉ, Tế tân 1 chỉ, Tần giao 2 chỉ, Quế tâm 1 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Phòng phong 2 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ, Tang ký sanh 3 chỉ, Ngưu tất 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Phục linh 2 chỉ, Bạch thược 2 chỉ, Thục địa 4 chỉ, Đại đương qui 3 chỉ, Sanh cương 5 lát.
Sắc 2 nước chế thêm một chung nhỏ rượu, chia ra làm hai, uống luôn hai, ba thang mới hay. Bịnh có bớt, uống thêm càng tốt.
26.-Mạnh tỳ vị, mau tiêu, bổ về phần khí cho sanh huyết
Phòng đản sâm 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Đại táo 3 trái, Sanh cương 5 lát, Phục linh cũ 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Hoài sơn (sao) 3 chỉ. Liên nhục (sao) 2 chỉ. Sắc hai nước uống cho nhiều.
27.-Ăn ngủ không được, mệt, lạnh tay chơn nghẹn cổ, chóng mặt
Trạch tả (sao) 3 chỉ. Mẫu dơn bì 3 chỉ, Lão thục địa 7 chỉ, Hắc phụ tử 1 chỉ, Đỗ trọng (sao muối) 2 chỉ. Hoài sơn (sao) 4 chỉ, Táo nhục 2 chỉ. Phục linh củ 2 chỉ. Nhục quế (gói riêng) 1 chỉ, Ngưu tất 2 chỉ. Hốt 1 thang sắc hai nước, vắt xác lấy nước cốt quế ngâm riêng nước sôi để nguội, lấy ra ngâm lại, lần thứ nhì, rót lại 2 nước quế và nước thuốc chung vô 1 tô, trộn đều chia làm 2 uống 2 lần, uống hơi nguội một chút, cử ăn hành, tỏi và tiêu vì phạm thuốc.
28.-Ăn ngon ngủ nhiều
Đại đương qui 3 chỉ, Long nhãn nhục 2 chỉ, Phòng dản sâm 3 chỉ, Chánh phục thần 2 chỉ, Quảng mộc hương (gói riêng) 5 phân, Tàn táo (sao) 2 chỉ. Viễn chí 2 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ, Chá hoàng kỳ 4 chỉ, Cam thảo 2 chỉ.
Sắc hai nước uống ấm. Mộc hương để ngoài, mài riêng, thuốc sắc tới rồi chế vô trộn đều chia ra 2 phần uống 2 lần.
29.-Bổ tim, dưỡng tỳ, trị bịnh hồi hộp, làm cho ăn ngủ ngon, mạnh tinh-thần khí lực
Phòng đản sâm 3 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Lão thục địa 4 chỉ, Đương qui lớn 3 chỉ, Ngũ vị tử 1 chỉ, Hoàng kỳ chá mộc 4 chỉ, Sanh cương 5 lát, Phục linh 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Bạch thược (sao) 2 chỉ, Viễn chi 2 chỉ, Trần bi (sao) 2 chỉ, Nhục quế 1 chỉ. Sắc 2 nước uống ấm
30.-Bổ trung chơn, trị đau lâu, ăn ngủ ít, tay chơn bải-hoải, mồ hôi ra nhiều, cổ chẳng thông, có đàm nhiều.
Hoàn kỳ chá mộc 4 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Đại dương qui 3 chỉ, Thăng ma 2 chỉ, Đại táo 3 trái, Cam thảo 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Bắc sài hồ 2 chỉ, Trần bi (sao) 2 chỉ, Sanh cương 5 lát. Sắc hai nước uống ấm.
31.-Chận cữ rét (lạnh nhiều hơn nóng)
Bắc sài hồ 3 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Bạch trực (sao) 3 chỉ, Lá thường sơn tẩm rượu (sao) 5 lá, Chế bản hạ 3 chỉ. Điều cầm 2 chỉ, Phục linh 2 chỉ, Thảo quả 3 chỉ. Sắc 2 nước, uống trước khi làm cữ một giờ.
32.-Chận cữ rét (lạnh nhiều hơn nóng)
Lão thục địa 4 chỉ, Xuyên khung 2 chỉ, Bắc sài hồ 3 chỉ, Chế bản hạ 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Thảo quả 3 chỉ, Bạch thược 3 chỉ, Đại táo 3 trái, Lá thường sơn tầm rượu (sao) 5 lá, Đương qui 3 chỉ, Điều cầm 2 chỉ, Phòng đản sâm 3 chỉ. Sắc 2 nước, uống trước khi làm cữ một giờ.
Con nít ói sữa Thiên sanh ư trực 1 chỉ, Phòng đản sâm 1 chỉ, Phục linh 5 phân, Xuân sa nhơn 8 phân, Cam thảo chá 5 phân, Hoài sơn 1 chỉ, Biên đậu 1 chỉ, Hoát hương 3 lá. Hốt 1 thang đề vô chưng cách thủy, 1 chén còn lại 4 phân cho uống, chẳng cần mấy thang, con uống nước nhứt, mẹ uống nước nhì, cứ uống cho nhiều thì mau hết. Đừng để lâu vì bịnh này hay hại con nít.
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Thi Văn | |
| |
| | | |
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
| Permissions in this forum: | Bạn được quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |