| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 17:24 | |
| First topic message reminder :http://www.thienlam.org/files/news/thumb/thanh-si-2_2.jpgĐường giải thoát - Phần 1 **** - dgtp1:
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ,
Độ chúng sanh không bỏ một ai;
Lòng thương yêu khắp nhơn loài,
Không hề muốn thấy một ai khổ trần.
Đường chơn chánh trên hơn tất cả,
Nẻo nhiệm mầu chẳng có chi bì;
Muốn người rõ tánh từ bi,
8. Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời.
Đêm thanh vắng dùng lời nhiệm nhặc,
Khách thường trần bất đắc chơn ngôn;
Riêng con tâm đạo thường tồn,
Với người cũng rán gọi hồn nhớ tu.
Kỳ qui nhứt dễ đâu kiếm được,
Khuyên trẻ nên trau chuốt tinh thần;
Chừng nào định quốc an dân,
16. Người thương người thể thương thân mới rồi.
Con ơi! Nếu còn người vong bổn,
Riêng lợi danh riêng sống cá nhân;
Vẫn còn có cuộc tranh phân,
Ấy là vốn tánh phàm trần xưa nay.
Kim cổ đã bao ngày luân chuyển,
Do tâm trần suy biến gây ra;
Lần nầy cũng chẳng còn xa,
24. Lập công ớ trẻ kẻo mà huốt đi;
Cuộc xảy đến cực kỳ khốc liệt,
Chúng sanh cần chưởng phước cho cao.
Con ơi! Nếu chẳng ba đào,
Thuyền từ đâu nhọc công vào biển mê.
Chớ rời khách hãy kề bên khách,
Rước nhơn gian Nam Bắc kẻo chìm;
Dù sao cũng chớ ngồi im,
32. Nếu còn có kẻ đắm chìm sông mê.
Không riêng để mình kề Sen báu,
Muốn cho ai cũng đáo Tây Phương;
Lánh đi cuộc tạm trần dương,
Cùng nhau hiệp lực mở đường dài lâu.
Nơi cõi tạm thiên sầu vạn khổ,
Người tự làm nào có ai gây;
Muôn điều bởi một chữ say,
40. Khiến cho sanh chúng đọa đày chung thân.
Con ơi! Chốn hồng trần mù mịt,
Bị lợi danh phủ bít chơn linh;
Khiến cho hầu hết chúng sinh,
Quên tìm kiếm lối cứu mình khỏi mê.
Tự mê đã chưa hề tỉnh giác,
Còn làm khôn dẫn dắt người mê;
Đường mê thêm nỗi dọc dề,
48. Gây thành cái thứ bệnh mê lưu truyền.
Kẻ đã thức nhớ khuyên người tỉnh,
Thắp đuốc lên cho cảnh sáng ra;
Ở trong tim não người ta,
Nhiệm mầu có đủ rán mà phát minh.
Chớ để đến thúi sình mất xác,
Lỗi công sanh phí mất một đời;
Một khi để kiếp qua rồi,
56. Muốn tìm trở lại làm người khó thay.
Làm người được là may muôn thuở,
Cũng là do xưa có nghiệp lành;
Bây giờ nếu biết tu hành,
Tất là sẽ được trở thành Phật Tiên.
Con ơi ! Hãy nhớ khuyên sanh chúng,
Phật Thích Ca xưa cũng là người;
Quyết tâm lánh bỏ tệ đời,
64. Đem thân sanh tử đổi nơi Niết Bàn.
Dứt bỏ cả ngai vàng điện ngọc,
Hy sinh luôn vợ đẹp con cưng;
Một lòng hành đạo xả thân,
Việc chi cũng bỏ chỉ cần từ bi.
Thương sanh chúng việc chi chẳng quản,
Tìm đạo mầu tánh mạng xem thường;
Nhờ lòng đầy đủ nghị cương,
72. Thích Ca đắc đạo danh dương khắp trần.
Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp,
Độ được mình còn vớt mẹ cha;
Thuyền to một chiếc sắm ra.
Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi.
Dấu Phật Tổ đã ghi rõ lắm,
Chơn chúng sanh cần bấm đi theo;
Muốn tu đừng có sợ nghèo,
80. Muốn thành Phật chớ nên đeo lòng tà.
Muôn việc đã nhiễm qua khó bỏ,
Cố bỏ đi dù có mất công;
Ban sơ khó tịnh được lòng,
Nhưng đừng thối chí cuối cùng sẽ nên.
Học đạo lớn phải bền chí cả,
Muốn quả cao cần có công dày;
Thích Ca chứng quả Như Lai,
88. Cũng nhờ chí cả công dày mà nên.
Phật thành được chúng sanh thành được,
Thánh với phàm chỉ một bổn lai;
Khác nhau kẻ tỉnh người say,
Chớ ai thì cũng như ai đủ hình.
Tội chính bởi tại mình gây tội,
Mê cũng do mình gội hết mê;
Phật đi Phật biết đường về,
96. Mình đi mình lạc, ngu mê tại mình.
Kẻ bị cảnh sanh tình phàm tục,
Ngưới cố tâm gây cuộc hồng trần;
Càng mê càng bước xa dần,
Càng gây nghiệp chướng càng đần độn lung.
Biết ác mộng phải bừng tỉnh dậy,
Thấy lầm đường thì chạy mau ra;
Nếu tâm còn chút dần dà,
104. Mộng sầu thêm nặng, lầm xa càng nhiều.
Tu phải tỉnh là điều trước hết,
Học phải hành là việc đầu tiên;
Ham chơi nên mới thành ghiền,
Tự lòng trói buộc, tự nguyền gỡ ra.
Lẽ siêu đọa Phật đà chỉ dạy,
Nghiệp dữ lành người phải tự lo;
Tự mình ăn mới được no,
112. Bắt người khác thế ăn cho thì lầm.
Thiếu hạnh phải tự làm lấy hạnh,
Chưa biết tu tự tánh lo tu;
Chuyển thân từ sấu hóa cù,
Mình tu không được ai tu cho mình.
Người với con đồng sinh cõi tạm,
Con với người đã nặng nhơn duyên;
Con thiềng rán độ người thiềng,
120. Bỏ người đi xuống mình lên sao đành.
Học Phật phải rộng tình tế độ,
Nói pháp cần phá bỏ chấp tâm;
Phật riêng tế độ Phật lầm,
Pháp còn có sự chấp tâm pháp tà.
Mẹ nuôi con xót xa chẳng nệ,
Phật độ người đâu kể công lao;
Hai tâm hồn rất giống nhau,
128. Mẹ giàu tình cảm, Phật giàu từ bi.
Tình yêu con đem đi yêu chúng,
Tánh lo tư để dụng lo công;
Tất nhiên cùng Phật một lòng,
Tội không thể có mê không thể còn.
Mẹ ăn chi cho con ăn nấy,
Phật thành mong vạn loại đều thành;
Lòng nguyền độ tử độ sanh,
136. Tình đời đâu sánh kịp tình từ bi.
Mẹ yêu con quản chi đẻ chửa,
Phật thương người đâu sá tử sanh;
Niết-Bàn là chốn an lành,
Lâm phàm độ chúng không đành ngồi yên.
Người tưởng Phật muôn thiên có một,
Phật nhớ người giờ phút không quên;
Khi nghe có tiếng khóc rên,
144. Thì lòng Phật tợ như tên bắn vào.
Thời mạt pháp tà cao hơn chánh,
Buổi hạ nguơn ít Thánh nhiều phàm;
Cho nên nạn ách bao hàm,
Mắt từ bi thấy, đâu cam ngồi nhìn.
Cậy sức mạnh chúng sanh gây họa,
Ỷ tài cao thiên hạ khởi binh;
Giết người, người giết lại mình,
152. Càng xem càng bắt động tình từ bi.
Quá thông thái người khi Trời Phật,
Lắm văn minh chúng miệt huyền cơ;
Khi Trời, Trời phạt bất ngờ,
Miệt huyền cơ, bị huyền cơ trị trừng.
Triệu ức năm qua từng thế đó,
Chẳng phải là mới có đây đâu;
Tiêu tan trên mặt địa cầu,
160. Muôn lần rồi chớ phải đâu một lần.
Núi nổ khắp xa gần đều cháy,
Nước tràn đầy khôn dại cũng trôi;
Tranh đời mỗi một lần bôi,
Cỏ cây đều sạch, thú người đều tiêu.
Cầm ngọn đuốc mà thiêu ổ kiến,
Lấy đá to mà liệng trứng gà;
Chúng sanh thử tưởng tượng ra,
168. Kiến kia sống chết, trứng gà nát không?
Kỳ đại hạn cũng đồng cảnh ấy,
Khi tẩy trần trông thấy hãi kinh;
Thây bèo xác bọt linh đinh,
Diều tha quạ xé chúng sinh tử nàn.
Trời héo mặt gà vàng cũng vắng,
Đất châu mày thỏ trắng bặt tin;
Nhìn vào đại nạn chúng sinh,
176. Quỉ thần còn phải thất kinh vía hồn.
Thật ra việc sanh tồn kỳ chót,
Tài không hơn nơi đức ớ con;
Đức tuy không thấy mà còn,
Tài coi rần rộ mà mòn như cưa.
Cọp với beo tranh đua oai dũng,
Bại nát mình thắng cũng trần thân;
Người tám lượng kẻ nửa cân,
184. Chung qui ai cũng rã thân tiêu hồn.
Kẻ tự cho rằng khôn mà dại,
Người bị coi là dại lại khôn;
Tài tiêu còn đức thì tồn,
Đó là chung kết của môn đấu trần.
Cuộc thắng bại phải cân nhắc kỹ,
Nẻo tồn vong cần nghĩ suy rành;
Phải mau bỏ dữ về lành,
192. Dù không tôn giáo cũng hành thiện lương.
Lành chẳng khác buồm trương thuận gió,
Dữ như là chấu nhỏ chống xe;
Tu hành việc cả rán nghe,
Đời này hung dữ chỉ là giết thân.
Con ơi! Mặc người xưng tài sức,
Phần con nên chủ đức là hơn;
Đức sau trước cũng vì nhơn,
200. Tài thường trước đức sau thân là nhiều.
Tài không đức chỉ chiêu khổ họa,
Đức không tài chỉ gá tai ương;
Tài thêm có đức đồng tương,
Khác nào rồng được mây vương lấy mình.
Có tôn-giáo phải gìn chánh đạo,
Không thần quyền cũng tạo hiếu trung;
Ở ăn đạo nghĩa bất tùng,
208. Khác nào cá nọ mà chun vào lờ.
Mỗi việc ác mỗi tờ giấy nợ,
Thân nay chưa thì đợi thân sau;
Vay bao thì trả cũng bao,
Xưa nay nhân quả luật nào nể ai.
Thời mạt pháp trả vay rất chóng,
Kỳ hạ nguơn chết sống lẹ thay;
Đời xưa trả báo thì chầy,
216. Đời nay trả báo một giây nhãn tiền.
Tiên quá bước huờn nguyên trần tục,
Thánh lộn đường giây phút phàm phu;
Tu hay là chẳng có tu,
Bề ngoài không kể chỉ thu tâm hồn.
Tâm giác được phàm nhơn hóa thánh,
Tánh mê còn Tiên dính hồng trần;
Thăng trầm tự xử lấy thân,
224. Lấy câu nhân quả định phân khỏi lầm.
Tự xét mình khởi tâm thiện ác,
Tự xét mình tạo tác hung hiền;
Khỏi cần hỏi ý Thần Tiên,
Tự mình cũng biết nghiệp duyên thế nào.
Ăn chanh muốn ngọt ngào không được,
Làm dữ mong có phước khó thay;
Một cùng với một là hai,
232. Trồng chi hưởng nấy xưa nay không lầm.
Con thương chúng khóc thầm đòi bữa,
Phật nhìn đời bắt ứa lòng vàng;
Mười người hết chín người gian,
Ngoài đời đã chán còn loan trong chùa.
Đạo đức chỉ là khua ngoài miệng,
Tu hành không một chuyện trong lòng;
Kệ kinh học nói cho thông,
240. Khác nào con két nháy ông chủ nhà.
Nói thông thái kể ra sao hết,
Làm trái ngang chẳng việc nào xong;
Đáng thương cho kẻ tốt lòng,
Bị người lừa gạt mà không biết gì.
Đến như Phật từ bi vô hạng,
Cũng bị người giả dạng tăng ni;
Làm cho sanh chúng ngờ nghi,
248. Cửa thiền vắng bóng, đạo nghì lảng tâm.
Con ơi! Đạo thậm thâm vi diệu,
Chúng luống công khuấy nhiễu không tan;
Chỉ thương cho khách trần gian,
Bị lòng ngờ vực chận đàng từ bi.
Long Hoa vốn kỳ thi công đức,
Hạ ngươn là chính lúc chọn lừa;
Lành thì làm, dữ nên chừa,
256. Thiện tồn ác thất thiên cơ định rồi.
Núi cao vút bỗng trôi thành biển,
Biển sâu hòm lại biến non cao;
Ruộng khô tức khắc sông hào,
Sông hào nháy mắt biến vào rừng sâu.
Cuộc thay đổi lời đâu nói cạn,
Cơ nhiệm mầu biết dặn sao cùng;
Từ bi với kẻ hiếu trung,
264. An tâm nhờ Phật hộ tùng ngày đêm.
Dữ rán bỏ chớ thêm việc dữ,
Lành nên làm thêm sự hiền lành;
Tồn sanh sẽ được trường sanh,
Thượng ngươn trở lại thái bình an vui.
Con ơi ! Khi thắm mùi đạo hạnh,
Như rồng kia thêm cánh nhẹ bay;
Đời thay mình chẳng hề thay,
272. Cùng chơn Bồ Tát, Như Lai đồng thiền.
Mau thành bởi lành duyên kiếp trước,
Sớm nên do chưởng phước hiện nay;
Cố công lượm lặt một ngày,
Được nhiều hơn kẻ bỏ hoài suốt năm.
Trước không biết sau tầm sẽ rõ,
Xưa chẳng tu nay ngộ thì thành;
Dữ xưa nhưng hiện nay lành,
280. Lành còn chớ dữ tan tành còn chi.
Xưa lành nhưng nay thì làm dữ,
Dữ còn ra lành sự đâu còn;
Khác nào nhà mới sơn son,
Châm dầu đốt rụi chỉ còn đống than.
Lành rán làm lành toàn chung thỉ,
Dữ chớ theo dữ chí cùng đường;
Dữ lành vốn ở tâm vương,
288. Chủ tâm chớ để vào đường ngục môn.
Hồn chủ xác là tồn tại mãi,
Xác chủ hồn là hoại diệt luôn;
Chìu theo sở dục ngông cuồng,
Chỉ mau hủy kiếp vô-thường ích chi.
Lấy thần trí chỉ huy thể xác,
Thể xác không dẫn dắt đường tà;
Học theo gương Phật Thích Ca,
296. Lấy thần trí đạo thắng qua dục trần.
Đời tàn lại nhằm cơn hoại diệt,
Kiếp tạm còn gặp dịp sảy sàng;
Mười phần hết chín phần tan,
Một phần còn lại toàn vàng với châu.
Không cánh mà bay đâu cũng tới,
Ngồi một nơi thế giới xem cùng;
Giả chơn lắm sự lạ lùng,
304. Phật ma khó biết rối tung lòng người.
Quá vật chất bị đời ám ảnh,
Yếu tinh thần bị cảnh cuốn lôi;
Chung quy chẳng việc nào rồi,
Chỉ làm đau khổ cho đời nhiều hơn.
Rán mở trí để cân giả thiệt,
Nhớ bình tâm xét việc chánh tà;
Đời nhiều khôn khéo quỉ ma,
312. Đụng đâu tin đó thì là lầm to.
Học khôn quỉ thường lo việc quỉ,
Dựa tánh phàm chỉ nghĩ thân phàm;
Bảo thân phàm đủ cách làm,
Làm theo khôn quỉ thân phàm mau tiêu.
Được giải thoát là điều trên hết,
Còn luân hồi phải chết chóc luôn;
Luống công bọt nước đóng khuôn,
320. Giả thân kết cuộc cũng hườn giả thân.
Phải tỏ ngộ đường trần mới dứt,
Được hết mê bến tục mới rời;
Mê là gốc khổ con ơi!
Còn mê thiên hạ chưa thời nào vui.
Bởi mê mới làm tôi thị dục,
Nếu ngộ đâu tùng phục lòng tà;
Dục tà đều hại người ta,
328. Dục là thống khổ tà là trầm luân.
Dục thường vì xác thân khởi xướng,
Tà thường vì vọng tưởng gây ra;
Cả hai đều thứ mắt lòa,
Lợi gần thì thấy, hại xa không tường.
Gần dứt thở trên giường chưa biết,
Bảo vợ con nối tiếp đường lầm;
Vì tình mà thọ cảm tâm,
336. Vợ con rồi cũng lũi lầm theo luôn.
Nghiệp cha mới vừa buông con bắt,
Hết cháu rồi lại chắt nối truyền;
Cứ như thế đó lưu liên,
Gây nên một khối thảm duyên nhiều đời.
Cha mẹ chết con rơi nước mắt,
Con chết thì cháu chắt khóc ròng;
Vợ thì chan chứa vì chồng,
344. Chồng thì vì vợ đôi giòng lệ rơi.
Nước mắt ấy từ đời vô thỉ,
Bốn biển to đem ví không bằng;
Sanh ly tử biệt vô ngằn,
Giây oan đáng sợ nợ trần đáng ghê.
Vạn sự bởi ma mê dẫn lối,
Trăm việc do quỉ tối cầm đầu;
Giác xong mê nọ còn đâu,
352. Ngộ rồi tối ấy bị thâu mất liền.
Trong tâm khởi dữ hiền phải biết,
Lấy trí phân hư thiệt cho rành;
Nếu điều tà niệm còn sanh,
Tự mình trừng trị tảo thanh lòng mình.
Hành đạo phải tự tin đầy đủ,
Tham thiền cần tự chủ hoàn toàn;
Vọng trần vừa mới thoáng ngang,
360. Chận ngay chớ để lan tràn trong tâm.
Chừng nào cảnh hết làm tâm loạn,
Khi ấy tâm đã đoạn cảnh trần;
Chánh tà đều được minh phân,
Nhưng đừng để tánh ngã nhân chen vào.
Tâm cảnh chẳng còn màu hỗn độn,
Tà chánh không xáo trộn trong lòng;
Như là vật với hư không,
368. Tự nhiên ánh sáng đại đồng bừng ra.
Con ơi! Phật Thích Ca đắc đạo,
Bị ma vương khảo đảo lắm lần;
Nếu tâm còn chút vọng trần,
Tất không đạt được quả phần Như Lai.
Ngồi niệm Phật thì ai cũng niệm,
Nhứt tâm không xao xuyến ít người;
Tâm như chong chóng giữa trời,
376. Phật thì một niệm còn mười niệm ma.
Các việc xấu nhớ ra trước nhứt,
Kế tay chân buồn bực mỏi mê;
Rồi ma buồn ngủ chạy về,
Phật quên niệm đến, khói mê phủ vào.
Không cần hỏi ông nào cũng biết,
Niệm thế bao giờ Phật chứng cho;
Khác nào nồi gạo mới vo,
384. Bắc lên nhắc xuống bao giờ chín cơm.
Mục đích việc sớm hôm niệm Phật,
Là để cho chấm dứt niệm tà;
Chỉ còn một niệm Di Đà,
Để nhờ Phật rước sang qua Liên Đài.
Có thật cảm Phật Ngài mới ứng,
Niệm lơ là phật chứng vào đâu;
Ví người đã rớt sông sâu,
392. Không cần kêu cứu ai hầu cứu cho.
Niệm Phật chẳng béo no chi Phật,
Phật cũng không mong nhắc đến tên;
Chúng sanh muốn Phật vớt lên,
Cho nên mới tưởng niệm tên Phật Ngài.
Phật nguyện độ muôn loài thoát khổ,
Nên khi nghe ai có lời xin;
Phật thêm động tấm bi tình,
400. Như là mẹ thấy con mình lâm tai.
Phật nhứt định không sai lời nguyện.
Nhưng chúng sanh phải niệm chí thành;
Chỉ là một niệm trọn lành,
Cũng là được Phật thân hành đến nơi;
Hoặc chẳng niệm một lời chi cả,
Nhưng thường hay có dạ từ bi.
Trần ai chẳng nhiễm vật gì,
408. Cũng là được Phật hộ trì ngày đêm;
Người tự độ cầu thêm Phật độ,
Như nước xuôi lại gió thuận chiều.
Đường về chóng biết bao nhiêu,
Được hai sức độ mau siêu phàm trần.
Tuy có được tinh thần bác ái,
Cũng nhớ nên tưởng vái Di-Đà;
Kỳ nầy có Phật ấy qua,
416. Rước về Cực Lạc ngồi tòa Kim Liên.
Cõi ấy chẳng não phiền đau khổ,
Tuổi sống lâu vô số vô biên;
Muốn chi thì được có liền,
Thân người nào cũng bằng sen hóa thành.
Cõi ấy vốn trọn lành trọn tốt,
Cõi ấy không ai chết ai già;
Thường ngày có đức Di Đà,
424. Dùng thần thông hóa hiện ra muôn hình.
Người nào cũng quanh mình đều sáng,
Ai cũng đều viên mãn thần thông;
Đường xa muôn dặm Tây Đông,
Nhưng đi chỉ mất độ trong phút giờ.
Người cõi ấy thường trưa mỗi bữa,
Đi cúng dường Phật ở khắp nơi;
Đi về trong buổi ngọ thời,
432. Người nào cũng muốn thỉnh lời Như Lai.
Nên ai cũng đồng giai Bồ tát,
Không người nào sa lạc phàm phu;
Hạ ngươn kẻ phát tâm tu,
Cầu về Cực Lạc là đầu nhập môn.
Cõi ấy vốn người nhân thiện cả,
Ai muốn sang phải dạ lương hiền;
Cõi sen người phải như sen,
440. Gần bùn mà chẳng ố hoen mùi bùn.
Cõi lành kẻ dữ hung khó bước,
Phật từ bi chẳng rước bất lương;
Muốn về Cực Lạc Tây phương,
Các điều hung dữ chớ vương điều nào.
Lá già thì trước sau cũng đổ,
Để lá non thay nở trên cành;
Hết đời trược kế đời thanh,
448. Luật đào thải ấy đã dành từ lâu.
Thuở xưa quả địa cầu rất tốt,
Đất bằng vàng thảo mộc bằng châu;
Người nào cũng rất sống lâu,
An vui chớ chẳng khổ sầu điều chi.
Người nào cũng dung nghi tốt đẹp,
Ai cũng đều hiền đức thông minh;
Nhỏ lần cho đến hiện tình,
456. Lòng người hóa xấu, địa hình hóa dơ.
Đến lúc phải ban sơ lập lại,
Khó tránh ngày có đại biến di;
Chính là cũng một cuộc thi,
Ai rơi ai đậu trong kỳ nầy đây.
Đức Tiếp Dẫn kỳ nầy cũng tới,
Rước hiền nhơn thế giới Ta Bà;
Đem về Cực Lạc Di Đà,
464. Dứt đường sanh tử lánh xa hồng trần.
Bá tánh nhớ tu thân lập hạnh,
Nữ nam cần cải chánh trừ tà;
Lọc lừa trận ấy nổi ra,
Có thần che chở cho qua tai nàn.
Thiếu đạo đức sắt gang cũng chảy,
Thật hiền lành bới cạy không trôi;
Luật kia đã định sẵn rồi,
472. Lành thời tồn tại, dữ thời tiêu tan.
Ngòi pháo đốt tất vang tiếng nổ,
Họa gây ra thì khổ hại thân;
Cũng nên xét kỹ xa gần,
Cho hồn khỏi đọa, cho thân khỏi đày.
Hồn bị đọa khó khai ngộ được,
Thân bị đày khó vượt lao lung;
Dẫn nhau đi tới đường cùng,
480. Thân tròng thêm tội, hồn tròng thêm mê.
Thê thảm rồi kế thê thảm tới,
Ma cũ đi ma mới hiện vào;
Lúc nào biển cũng sóng xao,
Chúng sanh chẳng có lúc nào đứng yên.
Phần lớn bị bạc tiền mờ trí,
Ít ai mà chủ trị được tâm;
Nghèo thì bị bạc làm câm,
488. Giàu thì bị của giam cầm chung thân.
Xưa nay chốn hồng trần như thế,
Hơn thua nhau chỉ kể đồng tiền;
Dòng đời xuôi ngược đảo điên,
Đều do cái thứ bạc tiền mà ra.
Thứ tiền bạc người ta tạo nó,
Rồi người ta lại khổ vì tiền;
Không tiền nói phải cũng điên,
496. Có tiền nói quấy cũng thiên người ừ!
Trâu bò thì bị người xỏ mũi,
Người bị tiền bạc cỡi trên lưng;
Trâu bò chỉ khổ xác thân,
Người thì xác thịt tinh thần khổ luôn.
Khổ đến chết chưa buông được nó,
Mà nhiều người lấy đó làm vinh;
Tiền xem trọng, nghĩa xem khinh,
504. Ngày nay thế giới chỉ tin đồng tiền.
Tiền là bạc không yên một chỗ,
Nay tay nầy mai ở tay kia;
Người thường vì nó rẽ chia,
Gây ra đổ máu đầm đìa khắp nơi.
Chủ được nó là đời hạnh phúc,
Nó chủ mình là mất tự do;
Làm ra để giúp để cho,
512. Chớ gom góp để bo bo giữ đời.
Đem giúp đỡ cho người chẳng mất,
Cứ bo bo giữ cất không còn;
Vật mòn biết dụng không mòn,
Tiền đừng nên bạc nên tròn nghĩa ân.
Ham tiền bị hư thân lắm kẻ,
Mến bạc nhiều người nhẹ giá danh;
Gái thì bán mất tiết trinh,
520. Trai thì trộm cắp hoặc sanh gian hùng.
Thân cho mấy khi lòng mến bạc,
Tình thân kia cũng nát như tương;
Tự mình bóp chết tình thương,
Mà không sáng mắt bởi vương bạc tiền.
Tiền dùng đúng tiền hiền như Phật,
Bạc xài lầm bạc ác hơn ma;
Phật ma cũng tại người ta,
528. Chớ tiền bạc nó vốn là vô tri.
Nhiều tiền kiếp Mâu Ni giàu có,
Bạc tiền đâu làm khổ được Ông;
Mà là nhờ có tiền đồng,
Giúp Ông bố thí khắp trong dân làng.
Đó là một trong ngàn công đức,
Phật Thích Ca chứa chất từ xưa;
Dùng tiền như hạn cho mưa,
536. Biển non đo cũng chẳng vừa đại ân.
Phật xưa cũng xác trần cõi tạm,
Ngài cũng tình cũng cảm như ai;
Thế mà ngài chứng Như Lai,
Nhờ lòng bố thí nhờ hay nhân từ.
Phật làm thế nay người cũng thế,
Tất nhiên là ngồi kế Phật Ngài;
Nhớ câu trọng nghĩa hơn tài,
544. Tiền tài chớ để nó sai khiến mình.
Ai có của bỉ khinh cũng mặc,
Đừng vì tiền gay gắt với ai;
Có ra thì đỡ xây xài,
Không thì nhịn chịu chớ cay đắng lòng.
Nghèo nhớ giữ lòng trong dạ sạch,
Giàu đừng quên bố đức thi ân;
Có dư chớ hưởng riêng thân,
552. Nên cho kẻ khác lây phần ấm no.
Được như vậy được kho công đức,
Sống đời đâu khổ cực vì đời;
Trong tâm thường được thảnh thơi,
Tuy trong cõi tục mà đời Thần Tiên.
Tiên với tục dính liền mặt trái,
Để vậy phàm lộn lại là Tiên;
Cũng thời sử dụng đồng tiền,
560. Người lo quần chúng kẻ riêng lo mình.
Lo quần chúng là tình Tiên Phật,
Lo riêng mình là chất phàm nhân;
Tình Tiên Phật hết trầm luân,
Chất phàm nhân tất còn thân luân hồi.
Phật phàm có thế thôi đâu khó,
Làm hay không việc đó tại người;
Người đâu bóng đó không rời,
568. Ngoái đầu ngó lại mặt trời thấy ngay.
Xưa ma đó bỗng nay Phật đó,
Cây với thuyền nào có xa nhau.
Khéo tay moi móc ghép vào,
Thì cây nên được thuyền tàu khó chi.
Chúng sanh chớ bỏ đi tự lực,
Mọi người nên lấy sức của mình;
Phàm tình đổi lại Thánh tình,
576. Tự mình sửa lấy lòng mình hơn ai.
Chớ ỷ lại kẻ ngoài cứu vớt,
Phải tự mình tìm cách thoát ly;
Thật tâm tự độ mình đi,
Tự nhiên có Phật hộ trì khỏi lo.
Không tự độ muốn cho Phật độ,
Khác nào như đất bỏ không trồng;
Ví dù mưa xuống ngập đồng,
584. Trái bông cũng chớ có hòng sanh ra.
Được sửa bởi Administrator ngày August 15th 2020, 17:33; sửa lần 1. |
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Tiếng nói trong hoa Sen August 15th 2020, 17:56 | |
| Tiếng nói trong hoa Sen - tnthsp1:
Tiếng nói trong hoa Sen
Ngoài trời lác đác mưa sa,
Trong phòng lặng lẽ mình ta với đèn;
Lưng đã mỏi vừa nằm thiu-thỉu,
Hồn bỗng dưng theo điệu nhạc trời.
Rồi liền đưa đến xa khơi,
6. Nhìn ra mới biết là nơi Liên trì;
Lòng tự hỏi đến chi đây nhỉ?
Chưa kịp cho ý nghĩ trả lời,
Liền nghe gió nhẹ đưa hơi;
Liên trì có một hoa tươi nở bừng.
Mùi thơm dịu chưa từng ngửi tới,
Sắc đẹp pha lẫn khối hào quang;
Tự nhiên tiếng nhạc dịu-dàng,
14. Từ trong sen ấy nhịp nhàng trỗi lên;
Hòa lẫn tiếng Thần Tiên ca trỗi,
Lời ca rằng: con hỡi là con.
Đường trần gót ngọc đã mòn,
Từ xưa dạ sắt nay còn tim gan;
Chừng nào con Niết-Bàn nhập tịch,
Nhập mà không mất tích ớ con.
Lời ca trầm bổng véo von,
22. Ngưng rồi mà tiếng vẫn còn vi-veo;
Hồn ta phưởng phất theo tiếng ấy,
Đứng lặng như tượng giấy hình đồng;
Khác nào như khoảng hư không,
Chính mình lại chẳng ngó trông thấy mình.
Bỗng có tiếng âm thinh sấm nổ,
Đóa hoa sen đã trổ vừa qua;
Ngọn đèn bỗng lại mọc ra,
30. Trong đèn hiện đủ Phật- Đà mười phương.
Mỗi Phật mỗi hình dung đẹp-đẽ,
Đẹp-đẽ hơn tượng vẽ trần gian;
Phật nào cũng vẫn mình vàng,
Nhưng hào quang có muôn ngàn khác nhau.
Mầu nhiệm thay Phật nào ta ngó,
Tức nhiên là Phật có lời ra,
Rằng con ơi: Phật không xa.
38. Tâm đâu tức thị Phật là đấy ư.
Hoa nầy vốn chơn-như Pháp bửu,
Đèn nầy là vô hữu diệu năng;
Nếu người không có thiện căn,
Thấy hoa hoa chẳng nói rằng chi đâu.
Hoa cảm được sở cầu của chúng,
Đèn thông qua . hướng trần gian;
Trong đèn có pháp chơn quang,
Sức năng hiện khắp mười phang Phật- Đà.
Mỗi Phật mỗi lời ra vi-diệu,
Khiến người xem được hiểu căn duyên;
Con không là kẻ đầu tiên,
50. Xưa nay đã lắm người xem đèn này.
Khởi niệm chi có ngay theo đó,
Tâm chúng sanh Phật rõ như gương;
Con ơi! Nơi cõi trần dương,
Đang còn sầu khổ vì cơn bão bùng.
Con hữu chí muốn cùng chư Phật,
Cứu chúng sanh khỏi cuộc can qua;
Lòng con cảm đến Phật- Đà,
58. Khiến cho thấy được đóa hoa sen này.
Lời trong hoa mở khai lúc nãy,
Do mười phương thế giới Phật- Đà;
Khiến cho hoa ứng lời ra,
62. Trong hoa có Phật, Phật hoa một nguồn.
Con hãy xem các phương Phật khác,
Cùng Phật đây có khác hay chăng;
Đồng tâm đồng một bản năng,
Cho nên sắc diện hình dung cũng đồng.
Lấy đây để mà trông thì biết,
Phật với phàm giả thiệt khác nhau;
Phật đồng tâm niệm sắc màu,
70. Phàm thì khác tướng khác vào trong tâm.
Tâm niệm khác, khiến tham muốn khác,
K.nh chống nhau tạo các khổ nàn;
Khác hơn Phật ở Niết bàn,
Cùng tâm thanh tịnh cùng đàng từ bi.
Dắt con đến đây chi có biết?
Muốn dạy con một việc rất cần;
Con nên tỉnh mỉnh tâm thần,
78. Để nghe lời Phật thiệt hơn tỏ bày.
Con ơi! Khách trần ai đang ngủ,
Màn vô minh phất phủ say sưa;
Ngoài trời ầm ỹ gió mưa,
82. Nhà hư sắp đổ mà chưa tỉnh hồn.
Cảnh chết ấy Phật không muốn có,
Nên gọi con để tỏ đấy ư!
Là người phải biết thương người;
Con mau lấy dạ bi từ khuyên dân.
Trời Tây có vị Thần hung ác,
Sẽ ra tay tận sát nhơn gian;
Từ người giàu có cao sang
90. Đến người đói khát nghèo nàn không tha.
Chỉ có đức mới là tránh khỏi,
Tài mấy không chống chỏi cho qua;
Vị Thần ấy lúc nổi ra,
Chúng sanh thế giới Ta-bà nát tan.
Có đức có hào quang bao bọc,
Thần Ác không dám xốc đến mình;
Phép nầy tối diệu tối linh,
98. Ấy là tự cứu lấy mình đấy con.
Bòn phước đức hơn bòn của quấy,
Có tiền dư mở đãy cứu dân;
Ấy là phép nhiệm che thân,
Cho ra không mất để dành tiêu tan.
Phật nói xong tay vàng liền chỉ,
Nơi phía Tây liền thấy hiện ra;
Vị Thần bộ mặt xấu xa,
106. Tay cầm một vật gọi là mê chung.
Mê-chung ấy khi rung lên tiếng,
Thì người nghe liền biến tâm thần;
Mắt tai đều bị mê lần,
Đất trời thấy tối ngã lăn chết liền.
Dù cho phép Thần Tiên đi nữa,
Bị mê rồi khó chữa lắm con;
Vật kia hồi có càn khôn,
Thì là có nó nay còn lại đây.
Chống được nó ít ai bớ trẻ,
Ngoài Phật ra mọi kẻ đều thua;
Phật thì lấy đức làm vua,
118. Xưa nay đức chẳng hề thua phép nào.
Trong đức có đủ hào quang diệu,
Cứng chắc hơn các loại kim cương;
Gọi là diệu pháp chơn vương,
Phép tà không thể cự đương được nào.
Đức càng lớn hào quang càng chắc,
Được viên dung đồng Phật Như-Lai;
Đức là mẹ của muôn loài,
126. Đức không tất chẳng có ngày nào an.
Chính các Phật mình vàng chói rực,
Cũng là do nơi đức sinh ra;
Đức không không có Phật- Đà,
Đức là nguồn cội của nhà chơn tu.
Đạo không đức đạo mầu chẳng gọi,
Đức muốn nên, nên mới tu hành;
Con ơi! muốn đạo quả thành,
134. Đức là căn bản rán dành thêm cao.
Chính nó là bức rào đỡ đạn,
Thần ác không xâm phạm được mình;
Ấy là phép tối diệu linh,
Gọi con đến để trần tình bấy nhiêu.
Phật nói xong liền nheo đôi mắt,
Rồi tự nhiên lặng bặt mất đi;
Cúi đầu tạ Đức Từ bi,
142. Nhiệm màu dạ chẳng còn nghi chút nào,
Ơn đức ấy chạm vào tim phổi,
Nguyện noi theo cho cổi lốt phàm;
Cảnh nầy lòng chẳng muốn ham,
Thì còn chờ đợi ưa tham cảnh nào?
Sen dường ấy đèn cao dường ấy,
Có sức năng hiện thấy mười phương;
Trí phàm không thể suy lường,
150. Đáng cho sanh-chúng cúng dường từ-bi.
Ta đang còn nghĩ suy suy nghĩ,
Sen bỗng nhiên phất phảy một cành;
Kế rồi tiếng nhạc liền sanh,
Thần ca một khúc vang lên êm đềm.
Rằng con ơi! ngày đêm không có,
Cõi sen nầy sáng tỏ luôn luôn;
Mỗi hoa mỗi cảnh khác thường,
158. Trong hoa có Phật hiện đương tọa thiền.
Hoa thọ mạng vô biên vô lượng,
Lấy kiếp phàm khó tính cho ra;
Nhưng hoa chẳng có tàn già,
Lúc nào cũng đẹp như là mới sinh.
Lấy cặp mắt phàm tình trông mãi,
Không bao giờ được thấy Phật đâu;
Tâm thanh con khởi lòng cầu,
166. Để mà thấy được cảnh mầu trong hoa,
Khi tai nghe lời ca vừa dứt,
Cành sen ngưng tiếng nhạc cũng ngưng;
Rồi liền trong phút bỗng dưng,
Mùi hương ngát mũi chưa từng ngửi ra.
Kế đó một đóa hoa phía hữu,
Chuyển mình xoay mặt ngó vào ta;
Thoắt như đèn điện bật ra,
174. Sáng vô cùng sáng hơn là trời trăng.
Trong hoa hiện rõ ràng thế giới,
Có các lầu cất nối liền nào;
Toàn bằng châu ngọc làu làu,
Trên không lại có tháp cao lưng chừng.
Giữa tháp có một vừng bạch sắc,
Trong hào quang có Phật ngồi yên;
Phật rằng ớ trẻ hữu duyên,
182. Nhân đâu con được đến miền nầy đây?
Con biết tên cảnh nầy chăng nhỉ,
Chính tên Vô-sầu-mị ngọc đài;
Những người từ cõi trần ai,
Sanh lên đến được cõi nầy đều vui.
Kìa con xem mọi người tất cả,
Sắc mặt không có vẻ buồn rầu;
Bao nhiêu đài các ngọc lầu,
190. Tạo nên bằng các báu châu diệu huyền.
Châu báu ấy tự nhiên biến hóa,
Tùy sở cầu hiện cả mọi nơi;
Muốn nghe nghe được đủ lời,
Muốn ăn chi có đủ mùi vị ngon.
Đủ phẩm vật không còn vật thiếu,
Tuy hột châu nhỏ xíu chứa đầy;
Duyên xưa con đã khéo gây,
198. Cho nên mới được chốn nầy đến nơi.
Kìa con thấy chói ngời viên ngọc,
Đang long lanh ở góc bên kia;
Định thần con thấy mỗi tia,
Mỗi vì Bồ-tát đang chia cứu đời.
Ông giả dạng ra người tàn tật,
Ông biến thân ra bậc giàu sang;
Ông thì hóa kẻ nghèo nàn,
206. Ông thì giả dạng làm quan đương quyền.
Mỗi ông mỗi có thuyền bát nh.,
Ngày chí đêm bươn bả cứu dân;
Biết bao nhiêu cuộc tảo tần,
Vì câu bác ái bất cần khổ lao.
Chính mắt ta trông vào thấy kỹ,
Có một ông đang bị cực hình;
Mặt luôn đầy vẻ tươi xinh,
214. Đớn đau tuy lắm không rên không buồn.
Có một ông giả cuồng đang chạy,
Và kêu vang thế giới sanh linh;
Rán tu để cứu lấy mình,
Ngày gần sấm nổ vang thinh h.i hùng.
Sắp đến phút rốt cùng thế giớí,
Nghiệp chúng sanh đã tới lúc muồi;
Khổ nhiều hơn sự an vui,
222. Không tu khó thoát qua hồi đại tai.
Có một vị ngồi ngoài phố xá,
Mặt tả tơi như kẻ ăn mày;
Vừa xin vừa cúi lạy dài,
Xin cô với bác ra tay giúp giùm.
Tuy thân phận bần cùng rách rã,
Cũng là người như cả mọi người;
Xin thương chớ dạ ngạo cười,
230. Tiền nay giúp một lời mười trả sau.
Nhơn loại sắp bước vào hỏa nạn,
Vật quí chi cũng tán ra tro;
Thân nầy nay chẳng đủ no,
Xin cô với bác thí cho ít nhiều.
Giúp kẻ khó là điều phải nghĩa,
Có phước dư sau sẽ khỏi nàn;
Cúi xin cô bác xóm làng,
238. Đồng xu chén gạo xin ban bố giùm.
Miệng vừa nói mà lưng vừa cúi,
Nước mắt rơi như suối đổ ra;
Kế nghe có tiếng Phật- Đà,
Rằng con ơi! ấy chính là Quan Âm.
Biết bao kẻ đã lầm lạc đến,
Cho rằng phường lười biếng ăn mày;
Nào dè là Phật vị lai,
246. Vì câu bi mẫn ngồi ngoài chợ đông.
Kẻ nào thí một đồng một cắc,
Phước to bằng trái đất đấy con;
Kẻ lầm nhiều chất dường non,
Người không lầm thật ít còn chi hơn.
Phật nói rồi bình thân im lặng,
Ta liền quay ngó thẳng bên kia;
Đồng trong ánh ngọc một tia,
254. Có vị bồ tát đang lê gót trần.
Hóa làm một vị quan liêm trực,
Thêm đầy lòng nhơn đức yêu dân;
Sĩ binh hộ vệ bất cần,
Một mình đi lại xa gần xét xem.
Thương dân thể anh em ruột thịt,
Vừa giúp dân chẳng tiếc một điều;
Cất nhà cho kẻ bị thiêu,
262. Ruộng ban cho kẻ thiếu điều cày canh.
Rách cho mặc được lành thân thể,
Đói cho ăn để khỏe mạnh lên;
Chẩn bần không lúc nào quên;
Lại thường khuyến khích theo nền Phật gia.
Riêng ông quên cửa nhà con vợ,
Chỉ lo bề ăn ở cho dân;
Khiến cho già trẻ xa gần,
270. Thảy đều biết cảm mến ân rất nhiều.
Liền nghe tiếng Phật kêu ta nói,
Ấy là ông Dĩ-Lợi Độ-sanh;
Mượn cơ giúp đỡ no lành,
Để lần dắt chúng tu hành đấy con!
Bồ-Tát ấy đức tròn hạnh mòn
Ngày gần đây chứng đặng Như Lai;
Hiện giờ ở chốn trần ai,
278. Có nhiều Bồ Tát như vầy lắm con!
Phật nói rồi ta liền cúi bái,
Rằng cám ơn Phật dạy tận tường;
Nếu quan ở cõi trần dương,
Như Bồ Tát ấy biết thương dân lành.
Dân chẳng có một ai hờn oán,
Nước càng ngày giàu mạnh vững an;
Không sinh ra cuộc rối loàn,
286. Khắp đâu đều cũng lặng an như tờ.
Phật rằng nếu biết lo thế ấy,
Thì cõi trần cả thảy hiền hòa;
Đao binh cũng chẳng sanh ra,
Và ngày tận diệt như là cũng không.
Nhưng tiếc thay một ông hành thiện,
Còn chín người theo chuyện bất lương;
Thế nên không ngớt thê lương,
294. Cạnh tranh nhau mãi trên đường lợi danh.
Tội lỗi chất muôn thành đầy ngập,
Khí ác xung lên khắp trời xanh;
Ngàn muôn dữ chỉ một lành,
Nghiệp kia sắp đến phạt hành gớm ghê.
Nếu sanh chúng giấc mê tỉnh được,
Và âu lo chưởng phước cho nhiều;
Dù cho có cuộc tàn tiêu,
302. Xác hồn kia được Phật theo độ trì.
Đủ phép nhiệm cứu khi lâm nạn,
Lòng muốn chi sẽ đặng có ngay;
Con ơi! Lời Phật không sai,
Nên khuyên khắp chúng trần ai thức lòng.
Phật liền ngước mắt trông một cái,
Sức lẹ làng mắt nháy còn thua;
Hiện ra một hột ngọc to,
310. Rồi trong ngọc ấy chiếu ra cõi trần.
Mây gió cuộn nước dâng linh láng,
Mù mịt trông hình dạng mờ mờ;
Thây như bèo nổi lờ đờ,
H.i hùng không thể ai ngờ cho ra.
Trên thây ấy yêu ma đạp giẫm,
Thây l.a lồ càng ngắm càng ghê;
Lúc nào đẹp đẽ dường huê,
318. Bây giờ xấu xí hơn dề rác trôi.
Mê dù mấy khi người trông thấy,
Cũng chán ngay hết lấy làm mê;
Tự lòng ta thấy ủ ê,
Buồn sao cảnh quá ê chề nhớp nhơ.
Cảnh chết ấy thật chưa từng thấy,
Chết như vầy thế giới còn chi;
Tự nhiên nước mắt lâm ly,
326. Rồi liền nghe Đức Từ bi gọi rằng.
Con ơi! Thây trôi lăn thế đó,
Toàn là người không có thiện tâm;
Tự làm thì phải tự cam,
Phật thương nhưng cũng không làm sao hơn.
Nghe Phật nói khiến lòng thêm não,
Đành rằng do nghiệp tạo sanh ra;
Thảng như cứu được người ta,
334. Cứu ngay không lựa ấy là nghiệp chi.
Từ bi vẫn từ bi tất cả,
Hễ xót thương luôn dạ xót thương;
Không nhờ Đức Phật yêu đương,
Cõi trần tiêu lẹ hơn sương gặp Trời.
Phật rằng ớ con ơi xét kỹ,
Phật thương hơn ý nghĩ con thương;
Nhưng người ăn ở bất lương,
342. Dù thương cách mấy không phương cứu rồi.
Đeo kiếng mát thấy trời sẫm tối,
Không lột sao nhận nổi trời trong;
Con ơi! Kiếng nọ lột xong,
Nghiệp không thì họa sẽ không tức thì.
Công lý chẳng riêng vì ai cả,
Tội thì hành phước sẽ thưởng ban;
Cứ làm mãi việc ác gian,
350. Ác gian ấy sẽ lôi mang họa vào.
Vạn sự chẳng ngoài câu nhân quả,
Ăn vào thì no dạ chẳng không,
Rán làm cho chúng cảm thông;
Luật nhân quả rất bình công vô cùng.
Riêng con khá nên dùng nhẫn lực,
Lướt chông gai thức tỉnh nhơn sanh,
Khiến người trở tánh hiền lành,
358. Ấy là biết cứu phàm tình đấy con.
Nghe lời Phật lòng son thêm tỏ,
Có cảm thì tất có ứng ngay,
Giống nào trái nấy chẳng sai,
Tự nhiên định luật xưa nay không lầm.
Thật đúng phép thậm thâm vi diệu,
Không Phật tâm khó hiểu Phật cơ;
Nhiệm mầu từ trước tới giờ,
366. Bí huyền nay cũng vẫn chưa hiểu cùng.
Người biết một ở trong muôn việc,
Chớ nào đâu hiểu biết máy sâu,
Nhiệm mầu sau trước nhiệm mầu;
Mối manh biết được đuôi đầu sẽ thông.
Khuyên sanh chúng để lòng xét kỹ,
Chọn lấy câu chơn lý làm theo;
Đâu là nước bọt mây bèo,
374. Đâu là sắt đá sơn keo nghiệm rành.
Rồi tự lực thiệt hành chánh đạo,
Khó ngàn muôn chớ não tâm linh;
Luôn gìn vẹn đức kiên trinh,
Không nên Phật Thánh cũng thành tiên nhơn.
Đời có phải là hơn mọi kẻ,
Đáng kính yêu đáng lẽ tôn sùng;
Khuyên người suy xét cạn cùng,
382. Để lo cho khỏi lụy chung kiếp tàn.
Dựa theo những lời vàng Phật bảo,
Cõi trần là huyễn ảo sắp tiêu;
Khác nào cột đổ nhà xiêu,
Gặp cơn bão tố dễ nào đứng an.
Cuộc sập đổ tiêu tan khó tránh,
Ớ trẻ già hãy lánh cho mau;
Chần chờ khi gió thổi vào,
390. Mạng căn kia khó giữ sao cho còn.
Trong lòng ta vừa đang nghĩ thế,
Viên ngọc kia vừa kế chiếu ra;
Một ông đầu bạc tuổi già,
Dung nghi đoan chánh, dan tay ra chèo.
Gặp phải lúc ngược chiều nước đổ,
Ông chèo nhiều thuyền nọ ít đi,
Tay chèo miệng lại ngâm thi,
398. Thi rằng: hoàn vũ nhứt kỳ khải an.
Kẻ hữu duyên có thoàn đại độ,
Mau xuống đi tìm chỗ lạc nhàn;
Đò nầy chẳng ngại biển giang,
Sẽ đưa rước khách ngồi an tới bờ.
Lão từ trước tới giờ cầm lái,
Chẳng lần nào đi sái hướng phương;
Khách già trẻ chớ ngại đường,
406. Muốn đi tới chỗ hãy bươn xuống đò.
Ông vừa ngâm vừa lo chèo tới,
Khách trên bờ ít gọi đến ông;
Phật rằng con có biết không,
Lão đò ấy hiện còn trong cõi trần.
Một Bồ Tát hóa thân đấy nhỉ,
Con để tâm suy nghĩ sẽ tường;
Nếu như có khách trần dương,
414. Gọi ông, ông sẽ đưa đường cho ngay.
Phật nói rồi vẫy tay một cái,
Thuyền hóa ra thế giới cực minh;
Cảnh vui nhà cửa rất xinh,
Người nào đều cũng dạng hình nghiêm trang.
Do cặp mắt làm tan bóng tối,
Không trời trăng vẫn rọi sáng trưng;
Mỗi người dưới mỗi bàn chân,
422. Có hoa sen đỡ đi dừng tự nhiên.
Phật rằng cảnh trong thuyền đấy nhỉ,
Bước xuống đi sẽ thấy ngay liền;
Trên đời ít kẻ hữu duyên,
Cho nên người được xuống thuyền mấy ai.
Ta càng xem càng say mết-mát,
Cảnh chưa từng để mắt trông vào;
Kính thay phép Phật rất cao,
430. Những điều biến hóa trần nào nghĩ ra.
Ước gì cảnh của ta xem đấy,
Khắp người đời cũng thấy như ta;
Cõi trần dù lắm mê sa,
Cũng là dứt bỏ để mà lo tu.
Phật rằng sấu, sấu nào cũng sấu,
Hóa rồng hay không hóa tại mình,
Nước kia chẳng chịu lặng bình,
438. Trăng dù có chiếu khó nhìn lắm con.
Quí hóa thay Phật ngôn vừa bảo,
Cảnh mầu do tâm tạo mà ra,
Nếu đồng tâm với Phật- Đà,
Tất nhiên cảnh Phật sẽ là thấy ngay.
Suy nghĩ thế lòng đây phới phở,
Tu thì thành chẳng thuở nào không;
Nguyện đi kêu khắp đại đồng,
446. Cho người trong cõi trần hồng gắng tu.
Ta nghĩ xong cúi đầu bái Phật,
Xin đội ơn của Đức đại từ;
Phật liền nhích miệng mỉm cười,
450. Thoắt ra một cái mất hồi nào đâu.
Ta đang ngẩn ngơ theo phép nhiệm,
Tai liền nghe có tiếng lá rung;
Nhìn ra lá dưới cành hoa,
Chuyển lay vài bận rồi ra ngưng liền.
Nhiều Bồ Tát hiện trên lá ấy,
Lá không chìm vẫn thấy tự nhiên;
Vị nào cũng rất trang nghiêm,
458. Đồng thinh cất giọng ngâm lên lời mầu.
Rằng nước vốn nguồn sâu ban bủa,
Phật do tâm mà có danh ngôn;
Thấy tâm thấy được Thế Tôn,
Bỏ tâm tìm Phật luống công tu hành.
Đang lắng nghe tiếng ngâm vừa dứt,
Bóng các Ngài liền khuất ngay đi;
Thật là Phật pháp bí kỳ,
466. Lời vàng trong lá dễ gì moi ra.
Chơn lý thay lời ca mới nãy,
Nguyện truyền ra cả thảy người nghe,
Chừng nào dân chúng hết mê,
Thì đây mới chịu ngưng bề nhủ khuyên.
Xưa nay vốn đạo duyên đã thắm,
Giờ được thêm phép nhiệm ban vào;
Khiến thêm sắc ngọc sậm màu,
474. Đường tu càng mến tả sao cho cùng.
Riêng phận đành vẫy vùng khỏi khổ,
Còn muốn cho khắp chỗ ly nàn;
Làm y theo những lời vàng,
478. Đạo mầu gieo khắp nhơn-gian mới vừa.
Cay đắng mấy cũng cho thường sự,
Miễn làm sao dân thứ hiền lành;
Ấm no no trong cuộc sống sanh,
Hảo-hòa khắp cả dân tình đó đây.
Hiện tại chẳng ai gây thù hận,
Vị lai không vướng bận khổ sầu;
Khắp dân thế giới năm châu,
486. Nắm tay nhau lại giữ câu hòa bình.
Biến cõi thế trở thành cõi Phật,
Đổi hung đồ ra được hiền nhơn;
Là ngày nhơn loại qui nguơn,
Ta-bà thế giới hết còn khổ lao.
Điều nầy ta ngày nào cũng ước,
Khát khao hơn khát nước nữa ư!
Lòng luôn khấn Đức đại từ,
494. Giúp cho ta sớm được như nguyện này.
Hôm nay được tới đây cõi lạ,
Càng khiến cho lòng dạ thêm nôn,
Cúi đầu bái tạ Thế Tôn,
Giúp cho thế giới càn khôn như vầy.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 17:56 | |
| - tnthsp2:
Khắp Nam Bắc hết gây khói lửa,
Cả Đông Tây cũng bỏ đao binh;
Ở ăn theo tánh trời sinh,
502. Háo sanh chớ chẳng chút tình sát ai.
Mắt thấy sự gổ gây bắt chán,
Tai nghe điều thù oán thêm nhờm;
Tranh nhau từ miếng cá cơm,
Nỡ đem tình nghĩa vùi chôn bùn lầy.
Dù học thức Đông Tây mấy bực,
Vì lợi danh đành dứt nghĩa nhân;
Sánh loài cầm thú ngang phân,
510. Đâu còn giá trị là nhân loại gì.
Nghe tiếng súng ầm ỳ đưa lại,
Như cầm dùi xoi hoáy trong tim,
Xét rằng từ cổ chí kim,
Vì tình hoặc giả vì tiền giết nhau.
Rốt cuộc lại người nào cũng chết,
Uổng mưu gian uổng giết lẫn nhau;
Ô danh trọng tội mang vào,
518. Thúi tràn muôn dậm thơm nào mấy ly.
Vả lại cũng tại vì nghiệp ác,
Linh hồn kia khi thác đi rồi;
Sáu đường cứ mãi lăn trôi,
Chịu chiều sanh tử luân hồi thiết tha,
Khổ với thảm kể ra sao hết,
Sống chưa chi kế chết tới nơi;
Ngắn thay số mạng người đời,
526. Cũng nên xét kỹ để hồi tâm tu.
Ta đang đứng gật gù suy nghiệm,
Trong tâm liền khởi niệm như vầy;
A-Di-Đà Phật phương Tây,
Hiển linh xin hiện chốn nầy cho xem.
Dạy cách nào ngày đêm trì niệm,
Để có mau kiến diện được Ngài;
Hồng trần già trẻ gái trai,
534. Như mù lại gặp phải ngày tối tăm.
Không Phật chỉ khó làm cho trúng,
Chế thuốc sai ắt bịnh không lành;
Con đường Tịnh độ vãng sanh,
Cúi xin Đức Phật mở tình dạy cho.
Trong tâm vừa vái ra như thế,
Thì ngọn đèn về phía phương Tây;
A-Di-Đà Phật hiện ngay,
542. Hào quang ở giữa lông mày chiếu ra.
Rằng ở cõi Ta-bà sanh chúng,
Có người nào lòng muốn gặp ta;
Phải như con hiếu nhớ cha,
Dù cho cách trở bao xa cũng về.
Niệm Di-Đà không hề để ngớt,
Cả sáu căn cũng một niệm nhau;
Tất là đàn chỉ bất lao,
550. Tây Phương đến được chớ nào khó chi.
Dứt sạch niệm mê si tức giác,
Cùng ngó nhau hai mặt hòa nhau;
Nếu còn tâm vọng trần lao,
Dù cho niệm Phật cách nào không linh.
Lời nầy con khá in trong trí,
Để truyền cho cạn kỹ người tu;
Chúng sanh đâu phải là mù,
558. Chỉ là mắc bịnh mộng du tại trần.
Sẽ tỉnh được chớ không mê mãi,
Con khéo lời chỉ dạy người ta;
Một người giúp được tỉnh ra,
Đức kia to lớn khó mà lường đo.
Ta cúi đầu liền thưa Đức Phật,
Xin chạm ghi ân đức đại từ;
Dạy cho rõ phép thật hư,
566. Sẽ là giúp được nhiều người thành công.
Cúi xin Phật nhủ lòng chỉ dạy,
Hiện ở nơi thế giới Ta-bà;
Tại sao khắp cả gần xa,
Chúng sanh thường niệm Di-Đà nhiều hơn.
Phật rằng có tám muôn dư pháp,
Pháp Di-Đà rất hạp hạ căn;
Dễ tu dễ nhớ dễ hành,
574. Cho nên hiện tại chúng sanh niệm nhiều.
Cũng là điềm tàn tiêu cõi hạ,
Duyên ta cùng tất cả chúng muồi;
Đất Trời đến lúc tối thui,
Thì ta ứng hiện độ người thành tâm.
Hào quang ta sẽ làm hết khổ,
Khi người nào được có chiếu vào;
Mẹ thương con đỏ thế nào,
582. Phật thương sanh chúng cũng vào thế ni.
Thương đến đỗi quên đi mạng sống,
Gánh khổ cho sanh chúng từ lâu;
Con ơi! Nên được đạo mầu,
Lòng từ bi phải rộng sâu vô cùng.
Món yêu thương cũng không tiếc kể,
Đem ban cho những kẻ khát khao;
Chúng sanh nơi cõi trần lao,
590. Tấm lòng nầy biết chừng nào hiểu ra.
Phật thấy chúng Ta-bà đang khổ,
Khó ngồi yên Tịnh-độ ớ con,
Hóa thân đến đỗi gót mòn,
Đó đây đi khắp chẳng còn chỗ không.
Tìm kiếm kẻ lòng mong nhớ Phật,
Đem về nơi Lạc quốc ở chung;
Kìa con để mắt xem cùng,
598. Hóa thân của Phật khắp trong cõi phàm.
Khi hóa nữ hóa nam đủ hạng,
Cứu chúng sanh không chán phút nào;
Lòng thương chẳng lúc mòn hao,
Xưa nay vẫn một sắc màu từ bi.
Gặp tai khổ như khi bình sự,
Lòng thương yêu dân thứ không phai;
Không riêng Phật ở phương Tây,
606. Phật nào cũng vẫn ra tay cứu đời.
Ngoài Ta-bà còn nơi khác nữa,
Cũng chúng sanh đau khổ như nhau;
Cứu luôn không bỏ người nào,
Nếu là tưởng Phật nếu trau tâm lành.
Phật nói xong liền nhìn ngoái lại,
Liền hiện ra thế giới Lạc-bang;
Biết bao nhiêu đóa hoa vàng,
614. Chỉ trong một khắc nở ngàn muôn bông.
Phật rằng con hãy trông như thế,
Mỗi bông là mỗi kẻ siêu thăng;
Nhưng mà kẻ đọa trần gian,
Nhiều hơn số kẻ siêu thăng cõi này.
Nên lòng Phật chưa khuây khỏa được,
Lo lắng luôn không ngớt ớ con;
Chừng nào kẻ khổ hết còn,
622. Thì là Phật mới Niết bàn ngồi yên.
Cảm lời Phật ta liền rơi lụỵ,
Rồi cúi đầu tỏ ý biết ơn,
Lòng nhơn trên hết lòng nhơn,
Đáng làm cha mẹ cõi trần chúng sanh.
Một mùi hương thơm lành ngát mũi,
Ngước đầu lên còn vọi hào quang;
Lẫn cùng tiếng nhạc trỗi vang,
630. Còn thân Phật đã ẩn tàng mất đi.
Thật phép nhiệm khó suy nghĩ kịp,
Đáng kính thay các Đức Từ bi;
Chúng sanh lòng muốn những gì,
Hiểu ngay liền khéo tùy nghi giúp giùm.
Ta đang còn bận trong ý nghĩ,
Rằng ước gì Phật chỉ thời cơ;
Để cho những kẻ còn ngờ,
638. Trở nên tin để kịp giờ Hoàng-Thiên.
Ta vừa nghĩ thì liền theo đó,
Trong ngọn đèn linh nọ hực ra;
Một hào quang chói sáng lòa,
Trong hào quang có một tòa Liên hoa.
Giữa có vị Phật đà ngồi ngự,
Nơi ngực bày lộ chữ vạn ra;
Mỗi nơi góc mỗi Phật- Đà,
646. Hào quang muôn sắc thật là đẹp xinh.
Phật vừa cười vừa lên tiếng nhạc,
Trong nhạc nghe rào rạc lời ca;
Rằng: Con ơi! Cõi Phật- Đà,
Phàm nhơn mấy kẻ được mà thấy đâu.
Không phải riêng con cầu mà được,
Vốn là duyên thuở trước khéo gây;
Thương con lao khổ dẫy đầy,
654. Vì noi gương Phật chốn nầy mà ra.
Con vừa gặp Di-Đà khi nãy,
Phước lớn hơn tứ hải ớ con;
Truyền ngôn con khá lo tròn,
Ngày gần Phật sẽ cùng con một vườn.
Con ơi! Với tình thương của Phật,
Khác hơn tình nhơn vật ớ con;
Thương không muốn chúng hao mòn,
662. Thương làm cho khắp người còn sống luôn.
Không ở trần về nương cõi Phật,
Chẳng tử sanh bịnh tật đeo mang;
Ngọn đèn trên cánh sen vàng,
Người thường nơi cõi thế gian khó nhìn.
Lành thay con hữu tình với Phật,
Giờ phút nầy mới được thấy ư;
Con đừng tưởng việc huyễn hư,
670. Đây là sự thật chớ ngờ ớ con!
Kìa nơi góc lầu son bên cạnh,
Con thử xem thấy cảnh trần ai;
Trên giường kia cái hình hài,
Đang nằm như thể khúc cây bất thần.
Chính là cái xác trần con đấy!
Con thử xem sẽ thấy ra sao?
Một khi hơi thở không vào,
678. Xác kia trở cứng khác nào khúc cây.
Rồi sình lên thúi khai hết kể,
Rã tan ra khác thể bùn lầy;
Hồng trần bất luận là ai,
Xác thân đều phải như vầy ớ con.
Thế mà chúng sanh còn mến tục,
Tạo tác ra nhiều việc tội tình;
Làm cho thêm nghiệp tử sinh,
686. Mười phương chư Phật càng nhìn càng đau.
Bên góc kia con nhìn vào thử,
Cõi Phật- Đà đủ thứ xinh tươi;
Cả ai đều cũng vui cười,
Buồn rầu lao lý một người cũng không.
Nếu muốn chi tùy lòng có nấy,
Dù việc chi chẳng trái tâm nguyền;
Nếu người ở cõi trần duyên,
694. Được về đây sẽ hết phiền hết lao.
Nhưng ít kẻ tin vào nơi ấy,
Thật đáng làm thương hại ớ con;
Dù cho lặn biển trèo non,
Chơn linh con chẳng hao mòn chút nao.
Càng lao khổ càng cao công đức,
Như tường dầy thêm chất đá chông;
Chỉ là đáng sự an lòng,
702. Chớ không đáng để ngại phòng sợ lo.
Con khá nên khuyên cho đời biết,
Khổ dù bao không thiệt chớ lo;
Trồng hoa, hoa sẽ trổ cho,
Lòng nguyền sẽ được chớ lo mất phần.
Phật là kẻ thoát trần đã hẳn,
Lời nói chi cũng chẳng hề sai;
Con ơi! Khá biết Như-Lai,
710. Vì dân đủ cách đổi thay dạng hình.
Hôm nay cũng vì tình con trẻ,
Phật hiện bày mọi lẽ con xem;
Ai trông cũng bắt muốn thèm,
Nhưng mà những kẻ được xem không hiền.
Mười phần lòng bận theo cõi tục,
Tin Phật Trời một chút cũng không;
Lòng thương của Phật tràn đồng ,
718. Đối cùng hạng ấy cũng không cứu rồi.
Nhưng Phật chẳng trách người nào cả,
Đối với ai cũng dạ yêu thương;
Từ bi luôn mở rộng đường,
Chừng nào hết kiếp vô thường mới thôi.
Đạo khi ngộ con ơi báu quí,
Đâu cũng là chơn lý ớ con!
Khi xem mây dán chót non,
726. Lúc nhìn sóng vỗ đầu cồn lô nhô.
Nơi nào cũng có cơ bí nhiệm,
Không vật chi mơ huyễn được lòng;
Con ơi! Hai chữ ‘Có Không',
Tìm ra cho được nguyên tông mới là.
Trong tiếng nhạc ứng ra lời nói,
Tuy không mà há gọi rằng không;
Phật đâu lại ở trong bông,
734. Bông sao lại mọc đèn chong thế này.
Ngoài . khách trần ai suy lượng,
Dễ mấy ai nghĩ tưởng cho ra;
Duyên lành ở một kỳ ba,
Sẽ còn lắm kẻ thấy hoa nầy nhiều.
Con rán dạ uốn chiều thế cuộc,
Truyền việc nầy khắp nước dân nghe;
Ngõ hầu sớm tỉnh giấc mê,
742. Để cùng các Phật qui tề nơi đây.
Nhạc lẫn tiếng ca nầy vừa dứt,
Một vừng mây lũ lượt bay qua;
Phật Ngài liền chỉ tay ra,
Mây kia dừng lại hóa ra địa cầu.
Đang quay xuôi bỗng đâu quay ngược,
Làm cỏ cây nhơn vật ngửa nghiêng;
Biển sông mà hóa đất liền,
750. Đất liền lại hóa ra miền biển sông.
Các phương hướng lạnh nồng đổi khác,
Khí hậu nơi Nam Bắc đều sai;
Nhìn xem vạn vật muôn loài,
Do nơi cuộc đổi thay nầy nát tan.
Trông thấy cảnh điêu tàn xơ xác,
Ruột rà đau nước mắt nhỏ sa,
Phật rằng ớ trẻ Ta-bà,
758. Cõi trần cảnh ấy xảy ra nhiều lần.
Mỗi một kỳ thay nhân đổi vật,
Là một lần quả đất lộn quay;
Vô thường kiếp tạm trần ai,
Hiệp tan tan hiệp như mây khác nào.
Con có thấy ai đâu trường cửu,
Không vật chi cố trụ được ư!
Hoàn toàn là cõi huyễn hư,
766. Đáng thương cho kiếp con người dường bao.
Luống công người kế mưu đủ lẽ,
Không việc nào dành để cho lâu;
Thân tàn, vật cũng hóa sâu,
Hữu hình tất hoại là câu nói thường.
Cõi Phật rán vẹt đường đi tới,
Thân không tàn vật mới trường miên,
Hỡi nầy ớ trẻ con duyên,
774. Phật- Đài bất lạc đâu khuyên tu hành.
Mắt đã thấy hết sanh ngờ vực,
Con được xem cõi Phật rõ ràng;
Rán khuyên lại kẻ thế gian,
Lo tu chớ dạ mơ màng nữa chi.
Tỉnh cho hẳn mới qui cõi Phật,
Đừng nữa chim nữa chuột dở dang;
Không ten thì phải thuần vàng,
782. Muốn cho giải khổ phải toàn chơn tu.
Ngày gần đây năm châu thế giới,
Như địa cầu vừa mới thấy kia;
Thây trôi máu chảy đầm đìa,
Nạn trời ách nước khó bề tránh qua.
Việc chẳng hệ Phật đà không bảo,
Nói ra đây vì đạo thương dân;
Phật không dối gạt hồng trần,
790. Những điều Phật nói chẳng lầm đâu con.
Phật không những cứu hồn khỏi đọa,
Cứu luôn thân khỏi họa trần gian;
Từ-bi chủ xướng hai đàng,
Sống lành thân thể thác an liên đài.
Phật nói xong rồi tay liền vẫy,
Quả đất kia trở lại thành mây,
Dần dần từ ấy cứ bay,
798. Phật rằng con hỡi thấy đây chăng là.
Chỉ trong một phút qua rồi mất,
Cõi trần gian nhơn vật thế ni;
Con ơi đáng quí yêu gì,
Nỡ đi giành giựt hại thì lẫn nhau.
Mọi vật tạm kiếp mau như chớp,
Nên giúp nhau thêm phút lâu dài;
Chớ vì tình, chớ vì tài,
806. Dẫn nhau đến chỗ nạn tai âu sầu.
Trên cùng dưới lấy câu hòa-hảo,
Giúp đỡ nhau manh áo bát cơm;
Muốn cho được có tiếng thơm,
Xem điều nhơn nghĩa trên hơn bạc tiền.
Trọng đạo cả hơn riêng ái dục,
Chẳng riêng lo hạnh phúc một mình;
Những điều lợi ích nhân sinh,
814. Lớn lao mấy cũng hy-sinh không cần.
Con ơi muốn phật Thần nên được,
Tấm lòng nầy làm trước ớ con;
Việc người cư xử không tròn,
Thì là việc Phật chẳng còn nên đâu.
Đạo không đời đạo nào có lập,
Thành Phật do tu tập trong nhân;
Bỗng nhiên nên được Phật Thần,
822. Phật Thần ấy cũng chẳng cần làm chi.
Thật bác-ái danh gì cũng mặc,
Chỉ biết điều cứu vật độ nhơn;
Đó là mới thật lý chơn,
Mới là đúng nghĩa Phật Thần ớ con.
Thương người đến mất còn chẳng kể,
Người tu hành như thế mới nên;
Điều nầy ớ trẻ chớ quên,
830. Bốn ơn trọng đại mới đền đáp xong.
Hành đạo dứt được lòng vị ngã,
Tất là chơn đạo quả nên ngay;
Con ơi! Lòng mến trần ai,
Thường tình không thể một ngày dứt xong.
Việc khó mấy cố công làm mãi,
Cũng sẽ nên không sái đâu con,
Con ơi! rán giữ cho tròn,
838. Tu cho mình lại phải còn tu nhơn.
Đường Phật-pháp keo sơn gắn chặt,
Phải anh-hùng thắng giặc trong tâm;
Những gì đã thấy sai lầm,
Liền chừa ngay chớ để làm dây-dưa.
Việc đáng chừa cố chừa cho được,
Tội lỗi bao cũng chuộc được ngay;
Con ơi! kẻ ở trần ai,
846. Tỉnh cơn mê được phải đầy khó khăn.
Phật xưa cũng trong hàng sanh chúng,
Nhờ quyết tâm mà thắng cơn mê;
Tâm không nhất quyết một bề,
Ngôi xưa vị cũ khó về ớ con.
Khá khuyên người lòng son một sắc,
Trước sau lòng theo Phật không phai;
Được vầy cùng Phật Như-Lai,
854. Niết-bàn sẽ có một ngày ngồi chung.
Phật nói xong liền vung tay áo,
Liền hiện ra chiếc Bảo-linh kiều;
Từ nơi thế-giới tàn tiêu,
Bắc ngang qua cõi bất diêu Phật- Đài.
Trên cầu có nhiều người nhẹ bước,
Mỗi người đều mỗi phước thần trì;
Mặt mày đầy vẻ uy-nghi,
862. Bên kia cầu có Từ-Bi đứng chờ.
Trong lúc ấy bên bờ mê khổ,
Biết bao người đang bỏ thây thi;
Kẻ vì ẩu tả chết đi,
Người vì bom đạn xác thi tan tành.
Lại có kẻ đang rên kêu khóc,
Bị gươm đao đâm thọc vào thây;
Có người cha mẹ lạc loài,
870. Chạy quơ tìm kiếm mắt đầy lệ rơi.
Vợ xa chồng kêu Trời vang dội,
Mẹ mất con đến đỗi cuồng điên;
Âu sầu cảnh vật điền viên,
Nơi nào cũng thấy thảm phiền héo don.
Quá đau đớn không còn nhìn nổi
Ta nhắm liền mắt lại rồi than,
Như vầy hết cõi trần gian,
878. Làm sao đến đỗi điêu tàn thế ni.
Kẻ trên cầu việc chi cũng chẳng,
Thương người đang lội lặn bên kia;
Ước gì được có sớt chia,
Cho người đang khổ bớt bề lao-đao.
Phật rằng con nghĩ sao việc ấy,
Kẻ khổ kia tự lấy mà ra;
Vì làm lắm việc gian-tà,
886. Nên ngày chung cuộc mới là thế ni.
Phật biết trước lắm khi dạy bảo,
Mà chẳng nghe cứ tạo ác luôn;
Phật nào phải chẳng yêu thương,
Nhưng người như thế hết đường cứu an.
Hôm nay Phật hóa quang chỉ cảnh,
Cũng vì thương bá tánh đấy ư;
Để cho con thấy cõi người,
Hầu truyền cho chúng tỉnh hồi lo tu.
Lần nầy chẳng quày-đầu hướng thiện,
Xác hồn đành tiêu biến biết sao;
Điều nầy con nhớ ghi vào,
898. Giục cho bá tánh khá mau tu hiền.
Gần đến cuộc biến thiên ớ trẻ,
Như vừa qua mọi lẽ con xem;
Nếu không rửa bỏ luốc lem,
Con ơi! đến việc khó tìm ngõ sanh.
Phật dạy con ngọn ngành hiểu rõ,
Để cho con bày tỏ người nghe;
Bí huyền không có đậy che,
906. Tại vì sanh chúng còn mê khó tường.
Đây Phật sẽ chỉ đường siêu việt,
Tất là con hơn thiệt sẽ rành,
Con nhìn ngay đóa hoa xanh,
Tự nhiên sẽ thấy dữ lành ra sao.
Ngó theo Phật chỉ vào bên cạnh,
Một hoa sen lóng lánh màu xanh;
Thoắt nhiên bựt sáng trong lành,
914. Có rừng với có thị thành hiện ra.
Trong rừng có hằng hà thú dữ,
Tranh đấu nhau hậm hự rỡn người;
Dọc ngang ở dưới gầm trời,
Đua nhau ăn sống nuốt tươi mỗi ngày.
Chịu nắng đọa mưa đày đủ cách,
Bị kẻ vây người bắt liền khi;
Khổ đau không thiếu món gì,
922. Sống đời nhơ uế ngu si thấp hèn.
Trong khi đó phía bên thành thị,
Loài người đang huê mỹ sống sanh;
Có nhà cửa có cung thành,
Xe tàu bay chạy lưu hành tự do.
Có đủ cách làm cho thỏa dục,
Đâu cũng đều đầy mục ăn chơi;
Nhìn qua ở khắp mọi nơi
930. Rượu chè mèo mỡ ít người nào không.
Phật rằng khi con trông vào đấy,
Giữa hai bên nhận lấy bên nào;
Ta chưa kịp đáp làm sao,
Phật liền tiếp nói thao thao như vầy.
Con ơi! cả bên nầy bên nọ,
Chớ chấp tâm lấy bỏ bên nào;
Vì rằng hai cảnh khác nhau,
938. Nhưng tình vẫn một khổ lao đọa đày.
Người mà thú nào ai có biết,
Thú mà người là việc đâu không;
Khác điều đội mũ mang lông,
Ác hung vô đạo nơi lòng giống nhau.
Vật nào cũng như bào như ảnh,
Gọi sướng vui nào thảnh thơi đâu;
Lòng luôn có sự ưu sầu,
946. Đời thường gặp việc khổ đau ít nhiều.
Người hay thú xét theo trình độ,
Chớ nên xem ở chỗ xác thân;
Thú người đều cũng xác trần,
Cũng sanh đẻ cũng uống ăn một tuồng.
Thân tứ đại vẫn luôn thế cả,
Có chi đâu làm thỏa ớ con;
Làm sao cho khỏi tiêu mòn,
954. Sống đời an lạc trường tồn mới ngoan.
Vậy con hãy nhìn xem bên cạnh,
Đóa sen vàng đang ánh bên kia,
Tất đâu là chỗ đáng mê;
Đâu là đáng chán mọi bề sẽ thông.
Nghe lời Phật ta trông bên ấy,
Một cảnh mầu chưa thấy bao giờ;
Dưới tàn một gốc cây to,
962. Mỗi vì Phật ngự trên tòa liên-hoa.
Trước mắt có hằng hà Tiên-giới,
Đứng hầu nghe Phật nói pháp mầu;
Các Tiên y phục khác nhau,
Mỗi vì đều có mỗi hào quang riêng.
Lời han hỏi dịu hiền tao nhã,
Mặt vui tươi đẹp đẽ khác thường;
Mỗi vì mỗi nực mùi hương,
970. Hoa trên cõi tục phải nhường mấy mươi.
Cảnh trang nghiêm màu trời mát mẻ,
Thêm có luồng gió nhẹ thổi qua;
Trên tàn cây chỗ Phật- Đà,
Nhạc từ mỗi lá rung ra dịu dàng.
Nhạc với tiếng Phật đang thuyết pháp,
Mầu nhiệm thay phù hạp lẫn nhau;
Lòng dù muôn vạn khổ đau,
978. Khi nghe nhạc ấy cũng thao mất liền.
Vui vẻ khó tả nên lời nói,
Huyền diệu không biết gọi sao vừa;
Ta chưa kịp mở lời thưa,
Phật liền bảo đó là cơ sau này.
Ngày biến chuyển Đông Tây Nam Bắc,
Cõi thế gian nổi giặc khắp nơi;
Sấm vang tối cả đất trời,
986. Bình minh trở lại như đời nầy đây.
Tu đến được hội nầy thong thả,
Cảnh thế gian tan rã không còn;
Chớ nên say đắm ớ con,
Đắm sau những vật không còn là ngu.
Vì thế Phật khuyên tu ớ trẻ,
Lấy trí mình xét lẽ mất còn;
Thấy đây nào dễ đâu con,
994. Nhớ ghi tâm khảm để còn khuyên dân.
Ta cúi đầu cám ơn Đức Phật,
Xin vâng lời khuyên dứt thế gian;
Phép lành xin Đức Phật ban,
Cho đâu đó được xuôi đàng giáo dân.
Phật mĩm cười rồi lần biến mất,
Giây phút lâu còn nực mùi hương;
Lòng ta cảm kích muôn dường,
1002. Tình thương thêm nặng trên đường Phật gia.
Ai ngờ một đóa hoa thế ấy,
Mà cõi chi cũng thấy rõ ràng;
Vì lòng mẫn ái thế gian,
Phật Ngài khéo lộ mọi đàng huyền cơ.
Dù không thấy nhưng nghe đây nói,
Cũng nên tin nên cổi tâm trần;
Ngàn muôn kiếp bị chuyển luân,
1010. Lời mầu khó được một lần nào nghe.
Nghe được ắt tâm mê tỉnh được,
Nếu tin theo sau trước một lòng;
Đây không phải chuyện bông lông,
Khi ai nghe đến chớ lòng bỏ qua.
Những lời ta viết ra nơi đấy,
Chính là điều mắt thấy tai nghe;
Không vì háo vọng đem khoe,
1018. Mà vì muốn được tỉnh mê khắp người.
Như Phật đã nhiều lời giảng giáo,
Đời nếu không có đạo đời mê;
Đời mê có đạo vỗ về,
Thì đời ấy sẽ hết mê có ngày.
Không cương quyết không hay thành tựu,
Dù việc đời việc đạo thế ư;
Nên mà bỏ luống cũng hư,
1026. Hư mà khéo sửa sẽ như ý nguyền.
Nơi hải ngoại lòng riêng một bóng,
Bước hồi hương trông ngóng mỗi ngày;
Phận còn phải ở nước ngoài,
Mượn lời của Phật đáo lai quê nhà.
Xin tất cả trẻ già nam nữ,
Hãy nghiệm suy mọi sự đây phân,
Thương nhau nên mới tố trần;
1034. Rất mong đó cũng tinh thần như đây.
Biết yêu nhau biết gây thiện cảm,
Biết quyết tâm vẹt đám mây mù;
Một lòng thệ nguyện chơn tu,
Tu cho đến đắc đạo mầu mới thôi.
Kẻ quê nhà xa xôi khó hiểu,
Ta xứ người lắm chịu đắng cay;
Nhưng lòng sắt đá không phai,
1042. Đủ phương chiều uốn để gây đạo mầu.
Mới trông qua dễ đâu biết được,
Việc ta làm có trước có sau,
Đỏ xanh chiếu rọi nhiều màu,
Nhưng đèn một ngọn làu làu sáng trong.
Tâm hồn nầy ước mong khắp chúng,
Ít nhiều gì xin cũng biết cho;
Xưa nay đây vẫn hẹn hò,
1050. Một câu tái ngộ trên đò từ bi.
Xin chớ buồn những khi xa cách,
Lúc nhớ nhau hãy đọc lời này;
Dù ta có ở Đông Tây,
1054. Tâm hồn cũng vẫn ưu hoài Bắc Nam.
Chịu cay đắng cho kham nghĩa vụ,
Đành xa nhau để thụ máy Trời;
Đạo đồng và mẹ hiền ơi,
Hiểu cho đây chớ đem lời trách than.
Cũng phải rán có gan sắt thép,
Dù cho ai bức ép dường bao;
Chữ tu trước cũng như sau,
1062. Khư khư một dạ không nao núng lòng.
Người nhà có lòng trông ta mấy,
Ta cũng trông thế đấy đâu thua;
Tinh thần đang phút chạy đua,
Gắng lên chớ để ai thua ai nào!
Ta nhiều lúc lòng đau như cắt,
Thường đêm thường nước mắt nhỏ sa;
Nhớ người ở chốn quê nhà,
1070. Nhớ luôn đến cảnh mẹ già cô đơn.
Ngày nào ta trở chơn quê nội,
Lòng nhớ nhung mới gội được ư!
Nếu còn ở chốn quê người,
Thì lòng thương nhớ đâu hồi nào quên.
Một khi việc được nên như nguyện,
Đền lại cho lúc viễn ly nhau,
Cơ Trời định vậy biết sao,
1078. Hãy nên bấm bụng đợi nhau qua ngày.
Dù ta ở nước ngoài đi nữa,
Lời gởi về mỗi bữa rán xem;
Rửa xong những chỗ ố lem,
Mối tình đạo đức càng thêm gũi gần.
Đồng đạo ôi! Có từng biết đến,
Tấm lòng ta đã mến dường bao!
Không riêng hai chữ đồng bào,
1086. Mà là đối với nước nào cũng thương.
Đi đâu cũng chủ-trương Phật giáo,
Khuyên người lo theo đạo tu hiền;
Chiến tranh là việc cuồng điên,
Giết nhau rốt chẳng lợi quyền chi đâu!
Kiếp sống ngắn chớ thâu thêm ngắn,
Hãy giúp nhau cho đặng sống dai;
Lấy tình chung của nhơn loài,
1094. Chớ đem riêng ý một vài phạm-vi.
Đến đâu cũng lời y như một,
Vẫn khuyên tu không chút ngại ngần;
Bóng chiều càng bước đến gần,
Sự khuyên tu lại thấy cần khuyên thêm.
Mong rằng khắp Bắc Nam quê nội,
Hiệp sức nhau mở lối khuyên tu;
Một người làm có hơi lâu,
1102. Nhiều người hiệp lại sẽ mau công thành.
Khó khăn mấy cũng đành chịu vậy,
Đừng thở than bải hoải tâm linh;
Vì người mà khổ thân mình,
Trên đời còn có sự vinh chi bằng.
Nơi đất khách ta càng tinh tấn,
Ở quê nhà cũng rán chí công;
Kiếp nầy giải thoát không xong,
1110. Thì muôn kiếp tới khó hòng siêu thăng.
Mội lúc nhỏ không ngăn không đắp,
Chừng lớn ra mới dập sao nên;
Đành rằng xuống dễ khó lên,
Muốn lên cần phải được bền sức leo.
Đời muốn được đạo sao không được,
Nên hay không rốt cuộc tại mình,
Muôn điều nhờ ở đức tin,
1118. Thỉ chung như nhứt với tình Phật gia.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 17:57 | |
| - tnthsp3:
Quản chi việc đường xa gối mỏi,
Không khổ thân ai gọi Như-Lai;
Khổ lao chịu đựng một ngày,
Sướng vui sẽ được bồi tài muôn năm.
Nếu chẳng thế đâu cam chịu khổ,
Lo tu hành giải khổ trần ai,
Ôm lòng sớm tối lạt chay,
1126. Vì không muốn sự oan dây buộc mình.
Gạn lừa chữ trược thanh cạn kỹ,
Mới không màng hương vị trần ai;
Người tu đâu phải ngu ngây,
Mà không biết việc lầu đài cao sang.
Biết mọi việc thế gian không sót,
Nhưng cho rằng tạm vật không ham;
Biết ngoài ra cõi tục phàm,
1134. Còn nhiều cõi khác đáng làm say mê.
Cho nên lòng không hề luyến ái,
Chỉ tìm qua thế giới bất di;
Tức là cõi đấng từ bi,
Bất sanh bất diệt vĩnh kỳ lạc an.
Đọc qua đây rồi toan lấy phận,
Ở hai bên phải nhẫn một bên;
Hai bên nắm hết không nên,
1142. Cái nào chơn thật lâu bền thì theo.
Muốn ăn trái phải leo phải chọc,
Chớ ngồi trơ dưới gốc không xong;
Nhứt thời chịu khó ra công,
Vĩnh kỳ mới được phước hồng trả cho.
Chẳng gia tâm lắng lo mài giũa,
Ngọc lu mờ như đá khác chi,
Hiện nay một xá một quì,
Mai sau được ngự liên trì muôn thu.
Vì thế mới vui tu kham khổ,
Nếu không trơn chịu khó làm gì.
Nhưng tham của kẻ từ bi,
1154. Khác hơn tham của kẻ đi buôn đời.
Suy xét kỹ chớ lơi dạ ngọc,
Nghe đây khuyên chí dốc lo tu;
Trùng dương muôn dặm mịt mù,
Ngóng tin quê nội đạo mầu chấn hưng.
Thường đêm thường rưng rưng nước mắt,
Bởi chưa nghe tin tức vui mừng;
Ngày nào nước mắt hết rưng,
1162. Là ngày bá tánh vạn dân an hoà.
Chữ đạo đức vốn là nhơn thiện,
Người thương người là chuyện ngay đường,
Khắp trong nhơn loại hiền lương,
Chính là thế giới thiên đường tại đây.
Ta ước nguyện điều nầy không ngớt,
Dù bao nhiêu Kinh Luật chẳng ngoài;
Quê nhà đồng đạo gái trai,
1170. Chữ nhơn thiện chớ lờn phai tâm tình.
Đọc giảng kệ làm in theo đó,
Chớ xem qua rồi bỏ chẳng hành;
Đã là thấy có chim xanh,
Tất là Kim Mẫu hậu hành đáo lai.
Tin mạnh chớ ngờ sai ý niệm,
Sẽ có ngày thọ điểm chơn quang;
Khuất gương vì bởi phủ màn,
1178. Khi màn hết phủ rõ ràng thấy gương.
Chớ âu sầu cũng đừng bải hoải,
Nên gắng công trì giới xem sao;
Phật Ngài đã bảo cách nào,
Ta đem nói cạn ở vào nơi đây.
Kể từ nay đến ngày ráo rốt,
Phật sẽ còn bảo nốt nhiều điều;
Muốn cho ai cũng được siêu,
1186. Lần lần ta sẽ ghi nêu gởi về.
Tiếng nói trong liên huê còn nữa,
Đây ta xin tiếp kế nghe luôn,
Trong khi ta ngẩn ngơ hồn,
Rằng hoa sao có lắm muôn phép mầu.
Mười phương Phật ở đâu cũng thấy,
Lòng muốn sao có vậy đáng kinh;
Khéo thay các Phật đồng tình,
1194. Vì thương sanh chúng lập nên hoa này.
Ta đang nghĩ rồi đây phải liệu,
Sao cho xong phận điệu làm trò,
Tai liền nghe tiếng sấm to,
Trong hoa sen hiện lên pho kinh mầu.
Hào quang chiếu mỗi câu thấy rõ,
Mỗi chữ đều ửng đỏ dường son;
Kinh rằng con hỡi là con,
1202. Phận trò muốn được vẹn tròn nghe đây.
Chớ quên những lời thầy đã dạy,
Một lòng son trì giới giữ chay;
Xả thân cầu đạo hôm mai,
Chí tu không phút lòng phai thì tròn.
Thầy làm sao thì con theo vậy,
Bước chân thầy con phải giẫm qua;
Con đường của Phật Thích Ca,
1210. Cứ đi theo đó thì là vẹn thân.
Nước nguồn với nước sông khác chỗ,
Nhưng tánh cùng một ngõ như nhau;
Cây thì mọc thẳng lên cao,
Nước thì xuống thấp khá âu thuận hành.
Kinh còn tả muôn ngàn nẻo nhiệm,
Giờ phút nầy chưa tiện nói ra;
Hẹn cùng lớn nhỏ gần xa,
1218. Có ngày ta sẽ viết ra hết lời.
Xin rán đợi chớ lơi dạ sắt,
Sẽ gặp hồi tương đắc chẳng không;
Nhiệm mầu ôm chắc nơi lòng,
Gặp người chung thỉ sẽ hòng trao cho.
Lời son ở nơi pho kinh nhiệm,
Ta vừa xem vừa nghiệm từ lời;
Kể sao cho hết người ơi,
1226. Thế gian sánh với Phật Trời đâu kham.
Kinh tự lật từ trang đến cuối,
Rồi bỗng nhiên gió thổi nhẹ qua;
Quyển kinh lần lượt bay xa,
Chỉ còn để lại đóa hoa sen vàng.
Liền có tiếng nhạc vang lên nữa,
Kệ từ trong hoa nọ phát ra;
Rằng Con ơi! Đức Phật- Đà,
1234. Vì con đi khắp Ta-bà chúng sanh,
Dạy rõ từ kẽ răng chơn tóc,
Pho kinh rồi là một diệu phương;
Ngày nào thuận nước thuận đường,
Kể cho dân chúng được tường ớ con.
Cay với đắng con còn nhiều lúc,
Chịu cho qua chớ phút chối từ;
Hy sinh cái kiếp hoại hư,
1242. Xây thành an lạc cho người năm châu.
Con chịu khổ Phật đâu muốn thấy,
Nhưng khổ vì bác ái đáng mừng;
Riêng mình chịu khổ một thân,
Giúp cho sanh chúng cả muôn người nhờ.
Sự khổ ấy đáng cho chịu khổ,
Khổ càng nhiều đức độ càng cao;
Khổ nay nhưng lại vui sau,
1250. Vui sau cùng khắp người nào cũng vui.
Mình được vui cho người vui với,
Sự vui nầy mới gọi thật vui;
Thế nên dù chịu dập vùi,
Vì dân cứ mãi vui cười ớ con!
Con đã khổ nhưng còn khổ nữa,
Cứ lóc lăn ngày bữa cho qua;
Đạo mầu bủa khắp gần xa,
1258. Một người tỉnh ngộ hơn là muôn châu.
Quên ngủ nghê quên câu may mặc,
Đói cũng quên đến khát cũng quên;
Ban ngày chí những ban đêm,
Từ bi hai chữ một niềm toan lo.
Người dương thế dù cho không biết,
Phật mười phương các việc hiểu rành;
Làm lành thì cứ làm lành,
1266. Không cần ai biết mới thành ớ con!
Vừa rồi quyển kinh son có chỉ,
Câu ấy con suy nghĩ ra sao?
Câu rằng: Ma khảo đạo cao,
Muốn cho tắm mát phải nhào ra sông.
Muốn được người kêu ông kia nọ,
Phải tuổi cao phải được công gì;
Điều nầy con xét kỹ đi,
1274. Rồi thì sẽ được củ qui lấy mình.
Phật nói xong vang thinh một tiếng,
Rồi dạng hình tự biến ra không;
Đóa hoa cùng ngọn đèn hồng,
Đèn thì phơ phất hoa không cựa mình.
Trông có vẻ huyền linh vô tận,
Một hoa mầu trong vạn đóa hoa;
Hồ sen rộng lớn bao la,
1282. Nước trong ríu chảy dưới hoa dịu dàng.
Nếu lấy mắt thế gian để thấy,
Cho không ai ở đấy hản nhiên;
Nhưng mà cặp mắt Thần Tiên,
Cảnh nầy đâu phải ảo huyền vô nhơn.
Kẻ nghe đây định thần xét kỹ,
Tìm hiểu ra đâu mị đâu không;
Ước người cùng thấy được bông,
1290. Như ta đã thấy thì lòng mới vui.
Nhưng tin rằng những người nghe đấy,
Nếu tin ta nghe lấy lời ta;
Mọi lời nói ở trong hoa,
Lòng son chặt giữ như là keo sơn.
Ai cũng được hành chơn chánh đạo,
Y như lời Phật bảo xưa nay;
Hoa kia hiện đến có ngày,
1298. Thấy hoa sẽ được nhiều bài hay ho.
Hoa đã nhiệm đèn cho thêm nhiệm,
Phật mười phương diện kiến tận mày;
Bịnh trầm được gặp thuốc hay,
Há không mừng rỡ ra tay rước vào.
Việc có thật chớ nào mơ mộng,
Rán tu hành sẽ đặng chứng minh;
Nên không gì cũng tại mình,
1306. Việc chi khó mấy cố hành cũng nên.
Ngọn đèn liền ửng lên một cái,
Sáng vô cùng rộng rãi vô biên;
Cả sen lẫn với cả đèn,
Mất đi để lại một nền trống không.
Từ nền trống khói un chất ngất,
Rồi hiện ra muôn vật đủ hình;
Rối loàn càng thấy càng kinh,
1314. Xun-xoăn đến đỗi mắt nhìn không ra.
Những hình dáng xấu xa không thiếu,
Lối hung tàn đủ điệu khác nhau;
Nổi chìm như sóng ba đào,
Chỉ trong giây khắc xôn xao đủ hình.
Tai liền nghe vang thinh một tiếng,
Cảnh ấy liền tiêu biến ra không;
Rồi hoa sen với đèn hồng,
1322. Tự nhiên trở lại như trồng đứng trơ.
Trong hoa có lời thơ nói rõ,
Rằng Con ơi! cảnh đó là gì;
Từ trong không chẳng có chi,
Sanh ra đủ thứ dị kỳ rối ren.
Xấu với tốt đua chen xô đẩy,
Dữ cùng lành qua lại không ngưng;
Rối loàn khó nỗi biệt phân,
1330. Khổ sầu chi sánh não nần chi qua.
Ấy tâm trạng người ta đó trẻ,
Nhìn đấy mà hiểu lẽ thiệt hư;
Người nào tâm được bình cư,
Tất cùng chư Phật cũng như khác gì.
Mọi việc của người suy với nghĩ,
Như khói un hồ mị vô căn;
Chung qui như tiếng sấm vang,
1338. Việc chi rồi cũng tiêu tan chẳng còn..
Lời vắn tắt nhưng con khá nghiệm,
Hiểu sâu xa là điểm công thành;
Vì con vì cả chúng sanh,
Mười phương các Phật phép lành cho xem.
Riêng con biết khá đem người biết,
Đạo bủa ra khắp hết trong trần;
Nêu lên hai chữ hóa dân,
1346. Khiến cho tất cả xa gần hiền lương.
Con nhìn ở bên vườn Cực lạc,
Rồi xem qua mảnh đất trần gian;
Đâu vui đâu khổ rõ ràng,
Đó là hai thứ thau vàng khác nhau.
Con liệu cách kêu gào bá tánh,
Khá nhận ra hai cảnh Phật phàm;
Có tham cảnh Phật nên tham,
1354. Cõi phàm khuyên chớ nên ham làm gì.
Vạn vật vốn hữu kỳ bất viễn,
Sướng dường bao mặc miếng dường bao,
Hay là tứ hải sang giàu,
Chỉ là giọt nước trên tàu lá rung.
Nên khuyên kẻ say cuồng sự vật,
Khá nhìn ngay cái xác đang mang;
Xác kia như đóm lửa tàn,
1362. Khó làm sao giữ được ngàn muôn năm.
Bạo cho lắm chỉ làm một lúc,
Dữ bao nhiêu cũng phút hơi còn;
Mỗi ngày tuổi sống mỗi mòn,
Tuổi mòn các việc cũng lòn đi theo.
Có của chớ nên đeo theo của,
Nên giúp cho những kẻ cơ hàn;
Lo làm những việc phước doan,
1370. Xác thân khi bỏ Niết bàn được lên.
Càng có của càng nên bố thí;
Bố thí nhiều đạo vị thêm cao,
Tại trần của cải tuy hao,
Nhưng nơi cõi Phật càng giàu phước thêm.
Ấy là kế trường miên ớ trẻ,
Nào phải đâu là kẻ dại ngu;
Giúp người sẽ được đền bù,
1378. Bất kỳ ai để mắt vào cũng thương.
Nói một cách thông thường dễ hiểu,
Người phải nên biết điệu làm người;
Giúp nhau là việc tốt tươi,
Hại nhau là việc ai người cũng chê,
Kiếp sống tạm ấy về định mạng;
Nhưng chớ nên giới hạn vào đây,
Giúp nhau cứ nguyện giúp hoài,
1386. Khắp người no ấm một ngày cũng nên.
Đem thân tạm giả trên trần tục,
Để tạo chơn hạnh phúc Phật- Đài;
Khổ lao dù mấy chớ nài,
Cố làm để giúp nhơn loài ớ con!
Tình siêu thẩm gác trên tình thế,
Nghĩa cao dày phủ cả nghĩa nhân;
Bao nhiêu mối nợ lần khân,
1394. Dứt đi không bận Phật Thần đấy con!
Lời vừa dứt tiếng bon một cái,
Như từ xa đưa lại vi-veo;
Khác nào như bị đá treo,
Dứt đi lòng thấy như phao hỏng người.
Bạc dễ kiếm chớ lời khó chuộc,
Chết mấy thây vẫn buộc vào lòng;
Làm cho bá tánh hiểu thông,
1402. Như lời đã nói trong bông mới vừa.
Nơi đất khách sớm trưa chí tối,
Lòng chỉ lo một mối ấy thôi;
Đủ hình giả trá trong đời,
Cốt làm cho chúng hiểu lời Phật Tôn.
Quê nhà khắp hương thôn đồng đạo,
Đừng quên đây đang thảo nhiều môn;
Uốn chiều trên lộ càn khôn,
1410. Thân nầy kể đã như chôn hết rồi.
Sống mà chết ai người có thấu,
Thấu được cho quí báu chi hơn;
Kìa xem mây dán đầu non,
Đây cùng mọi việc tục trần thế ư!
Rán cùng đây cho như một rạp,
Nửa chừng đường chớ đạp lộ riêng;
Tu hành nhớ giữ căn nguyên,
1418. Có ngày Tiên Phật được thiềng (1) chẳng không.
Mắt dễ nhắm nhưng lòng khó tịnh,
Sự muốn ưa phải nhịn dễ gì;
Qui y thì rán làm y,
Khó tu thế mấy cũng trì cho nên.
Ngày thành tựu sẽ đền công khó,
Khuyên chớ nài ngựa vó phong sương;
Kẻ đang ở cách trùng dương,
1426. Người trong quốc nội còn đường gặp nhau.
Khuya sớm chớ quên trau đạo đức,
Sớm muộn gì cũng được như nguyền;
Gặp ngày trời hợp đôi duyên,
Tất là sẽ được cổi phiền mấy năm.
Hồn ta ở đầu nằm khắp chúng,
Tình ta luôn ấp úm trong dân;
Tuy thân kẻ Sở người Tần.
1434. Nhưng lòng luôn được ở gần với nhau.
Kẻ quê nhà khổ đau một tí
Ta nước ngoài như bị kim châm;
Không riêng thông cảm bằng tâm,
Mà còn liên hệ đến thân xác phàm.
Xin già trẻ rán làm việc phải,
Giúp cho đây bớt cái ưu sầu;
Thân gầy gặp lắm lo âu,
1442. Càng gầy thêm nữa có đâu bớt nào.
Xin vui nghĩ tình nhau một chút,
Bớt cho đây những khúc đau buồn;
Mỗi ngày giọt lệ mỗi tuôn,
Vì thương bá tánh còn đường gian lao.
Ước mong được gió mau đưa đến,
Để nhổ sào rời bến Phù Tang,
Ngày nào còn cách đôi đàng,
1450. Niềm xưa không thể luận bàn hết câu.
Riêng ta thấy ưu sầu hiu quạnh,
Người quê nhà cũng chạnh buồn đau;
Chắp tay nguyện vái trời cao,
Duyên người Nam Bắc khiến nhau sớm gần.
Phút chia cách vì cơn suy bỉ,
Ngày nhứt qui là khí thạnh hưng;
Từ đây đến lúc trở chơn,
1458. Cũng nên gắng đợi xin đừng lảng tâm.
Chữ đạo lý là mầm cứu khổ,
Câu huyền cơ là chỗ giải oan;
Dù cho muôn vạn hùm lang,
Cũng đi cho đến tột đàng chớ lui.
Hoa chưa nở thì mùi chưa có,
Trái chín rồi đây đó thơm tho;
Vun bồi là việc đáng lo,
1466. Một ngày xao lòng héo khô một ngày.
Núi tuy lớn đục hoài sẽ mỏn,
Rừng tuy to cứ đốn sẽ thưa;
Tội bao lòng cố gắng chừa,
Có ngày hết được chớ ngờ rằng không.
Việc chi nếu chí công làm mãi,
Dù khó khăn thế mấy cũng thành;
Khó khăn là việc tu hành,
1474. Xưa nay đã lắm người thành đâu không.
Chớ ngại bước gai chông chớn chở,
Vượt tuyết sơn tầm ngõ đạo mầu;
Thích-Ca cùng một khác đâu,
Trái bầu cùng với hột bầu không xa.
Ôm chí đạo ngày qua tháng lại,
Rèn luyện cho đến đại công thành;
Lọc lừa tâm não cho thanh,
1482. Cũng người nhưng sống khác tình phàm phu.
Chơn tâm tợ trời thu sáng tỏ,
Vọng niệm như mây bủa mịt mờ;
Mây kia càng tản càng thưa,
Trời thu càng tỏ đến giờ sáng trong.
Điều ấy khá để lòng xét kỹ,
Ngó mặt vào tường lũy bình quan;
Từ nơi biển rộng minh mang,
1490. Mặt trời lần mọc thấy càng đẹp xinh.
Thoắt nhiên tánh dịu minh mở tỏ,
Cùng biển trời kia có khác đâu.
Nghe đây rồi nhớ lo âu,
Làm sao cho được đạo mầu tinh-minh.
Mưa nắng có chỉ nên công rấm,
Sẵn đạo mầu còn gắng tu thôi;
Đây nào bịa chuyện người ôi!
1498. Cuộc đời còn có mấy hồi nữa đâu,
Sớm không liệu muộn âu sao kịp,
Gặp đạo mầu là dịp giải oan;
Muốn ra khỏi cảnh khổ nàn,
Cần lo tu gấp chớ màng sự chi.
Qui Phật nhớ làm y theo Phật,
Qui Tăng cần dõi bước theo Tăng;
Phật Tăng qui nhứt một đàng,
1506. Với lòng qui Pháp giáo càng gắng ghi.
Trong pháp-giáo luật-nghi là cội,
Kẻ tu hành sớm tối rán gìn;
Luật nghi càng giữ sạch tinh,
Đạo mầu càng sớm chứng minh đắc thành.
Ta đang ngóng trong tin quê nội,
Được có người mở khối linh quang;
Lòng đây xin chớ phụ phàng,
1514. Rán khai phá hết bức màn vô minh.
Mọi sự vốn tại mình tất cả,
Làm việc chi phải khá xét suy;
Quấy rồi khi biết bỏ đi,
Phải chưa làm được cố trì cho nên.
Những tật xấu rán quên cho được,
Các việc lành không chút bỏ qua;
Lòng luôn mật niệm Di-Đà,
1522. Nhớ ghi lời Phật Thích-Ca dạy truyền.
Trọng đạo đức hơn quyền chức tạm,
Giúp cho người dạ chẳng mong đền,
Ngày đêm khấn bái ơn trên,
Cứu dân khỏi cảnh đảo điên khốn nàn.
Ở trong một nén nhang rẻ giá,
Đem tinh thần cao cả để vào;
Nén nhang ấy quí dường bao,
1530. Phật Tiên đâu cũng bôn đào chứng minh.
Một xu được lời đền vạn đức,
Của bất lương vay một trả mười;
Nhỏ to cạn xét dân ơi!
Liệu cho hồn khỏi bị rơi Diêm-đài.
Chỉ một thấy họa tai muôn triệu,
Nhả vài lời phước nhểu trăm thiên,
Lọc lừa kỹ bớ chư duyên,
1538. Bạ làm bạ nói là nguyên tội sầu.
Ta được lãnh nhiều câu bí yếu,
Của Phật Tiên dạy biểu xưa nay;
Bước đường đâu vạy đâu ngay,
Nơi lòng được biết nên bày ra đây.
Muốn ai cũng cùng xây đạo pháp,
Lo cho mình lo khắp người ta;
Giống lành gieo rải gần xa,
1546. Tạo nên thế giới an hòa phồn hưng.
Chớ ích kỷ cho thân sung sướng,
Mặc cho ai nghiệp chướng nặng nề;
Riêng mình ăn mặc phủ phê,
Không màng đến kẻ thân che không lành.
Đạo bác-ái quên mình lo chúng,
Đức từ-bi rộng bụng thương dân;
Phận mình lao khổ chẳng cần,
1554. Miễn là giúp được kẻ thân no lành.
Đạo như thế mới thành chánh đạo,
Đức không vầy sao bảo đức tôn;
Dại ngoài nhưng lại trong khôn,
Ngoài khôn trong dại việc còn lạ chi.
Khuyên nam nữ khá suy tột lẽ,
Chớ cho tu là kẻ dại khờ;
Nếu không biết mối huyền cơ,
1562. Đâu cam non lành ngồi chờ lục niên.
Ta vì quá cuồng điên đạo lý,
Nói không ngừng mùi vị Phật môn;
Nhưng ta đâu dám làm khôn,
Nói ra vì muốn hương thôn tu hành.
Nói đây chẳng riêng mình bày nói,
Do Phật Ngài chỉ mối cạn sâu,;
Gần ngày biển hóa cồn dâu,
1570. Nói ra cho chúng quày đầu tu thân.
Chậm một bước não nần mấy đoạn,
Mau cất chơn rừng thẳm sớm ra;
Xưa nay ở cõi Ta-bà,
Đổi thay nhiều cuộc đâu là mới đây.
Đồng đạo lấy lời Thầy dạy dỗ,
So với lời Phật tổ mà xem;
Hồng trần là chốn luốc lem,
1578. Mở tâm thấy được hết thèm khát ư!
Ta xin tiếp lời chư Phật bảo,
Trong hoa sen quí báu ra nghe,
Cõi không Đức Phật biến về,
Ta còn đang đứng say mê một mình.
Hoa với đèn hiển minh trước đó,
Ta chừng như quên có đèn hoa;
Trong lòng liền phát nghĩ ra,
1586. Phật ơi! có biết tâm ta muốn gì?
Chưa kịp nghĩ việc chi đến rốt,
Bên tai như gió trốt đi qua;
Ngọn đèn liền tủa sáng ra,
Như ngàn châu rải mới là thêm kinh.
Trống đâu đánh ình ình vang dội,
Ba hồi to nhức nhối lỗ tai;
Trống ngưng liền thấy hạc bay,
1594. Ngậm phong thơ đỏ nhả ngay trước đầu.
Thơ chỉ có bốn câu thi ngắn,
Lời giản đơn căn dặn như vầy:
Ba hồi trống mở khai,
Mọi người thấy vang tai;
Tiếng trống kia khi dứt,
Không hỏi cũng biết ngay.
Bốn câu nầy xin ai khéo nghiệm,
Mầu làm sao và nhiệm làm sao!
Càng suy xét đến chừng nào,
1604. Càng hay ho khó tả sao cho cùng.
Đời đến lúc qui chung như thế,
Đạo cũng không ngoài lẽ ấy đâu;
Đọc đi đọc lại từ câu,
Chừng nào hiểu được đuôi đầu sẽ thôi.
Bức thơ ấy đọc rồi như tuyết,
Tự tan lần đến việc hóa không;
Cũng đèn rồi lại cũng bông,
1612. Nghiêm trang khó tả sao cùng nghiêm trang.
Ớ đồng đạo kiên gan bền chí,
Làm sao cho hiển thị hoa đèn;
Sẽ là không ngớt lời khen,
Thần Tiên của việc Thần Tiên khó lường.
Thần Tiên cũng từ đường sanh chúng,
Mà đáo lai đến chốn siêu nhiên;
Chúng sanh có thể Thần Tiên,
1620. Khá tin chớ có để riêng lòng ngờ.
Tâm đang rối đang mờ không thấy,
Thần Tiên nằm trong ấy rán moi;
Lóng tâm để trí mà coi,
Thần Tiên ấy sẽ bựt lòi sáng ra.
Việc có thật không ngoa rán bịn,
Khi thấy ra nhờ tính dẻo dai;
Lòng nguyền lánh nợ trần ai,
1628. Việc chi dù lắm rủ nài không ham.
Khó thế mấy cũng cam chịu khó,
Miễn làm sao mở tỏ chơn linh;
Thói hư tật xấu nơi mình,
Dù cho khó bỏ cũng rinh ra ngoài.
Cuộc đáo đầu nay mai rất chóng,
Không gấp tu thì hỏng khoá đi;
Máy trời như chớp rất nguy,
1636. Đừng rằng việc chẳng gấp chi là lầm
Trời trong đó rồi gầm chuyển đó,
Là việc thường hay có phải không;
Thì là cơ cuộc đại đồng,
Ngày kia cũng thế chớ hòng sai ngoa.
Mắt đây thấy Phật đà hóa hiện,
Việc thế gian nhiều chuyện quái kỳ;
Chừng ngày tai nạn phủ vi,
1644. Gió lay một ngọn cũng nguy cả làng.
Chớ tưởng cõi thênh thang sơ lọt,
Khí trời đâu cũng lóc đến nơi;
Tu hiền mới vững người ơi,
Vì rằng nhân thiện có Trời phước ban.
Nhắc thêm chuyện hoa vàng hiển ngữ,
Còn nhiều điều lý thú vô cùng;
Ta vừa đọc bức thơ xong,
1652. Thơ kia lần biến hoa đồng rung lên.
Ai ngờ có tiếng rên thê thảm,
Từ trong hoa như vạn muôn người.
Kẻ thì như đắm giữa vời,
Người thì như lạc loài nơi rừng già.
Có kẻ như bị sa núi lửa,
Có người như té hố thẳm sâu;
Có người như bị diều hâu,
1660. Như đang bị thú vây bâu cùng mình.
Có kẻ bị yêu tinh dọa nạt,
Có người như đói khát lóc lăn;
Có người bị giặc bủa giăng,
Tai nghe đầy tiếng rên than não nề.
Nghe không cũng hồn mê phách lạc,
Nếu thấy càng thần thất tâm kinh;
Chính đây cũng bắt rùng mình,
1668. Thảm thê ấy vốn báo tin sau này.
Khắp nhơn loại Đông Tây Nam Bắc,
Ở chỗ nào cũng gặp thế ư!
Cúi xin các Đức bi từ,
Ra tay cứu vớt con người trần ai.
Dân nếu gặp cảnh nầy khó sống,
Kẻ không tu càng mỏng thêm hơn;
Làm lành hỡi khách tạm trần,
1676. Tuồng đời càng lúc càng gần không xa.
Cuộc biến chuyển kỳ ba rất dữ,
Chớ không như thường sự bấy lâu;
Đổi thay khắp hết địa cầu,
Không riêng một giới một châu bớ người.
Nên Phật mới cạn lời dạy dỗ,
Khiến chúng sanh hiểu rõ ngọn ngành;
Ngõ hầu tỉnh thức tu hành,
1684. Bỏ điều hung dữ theo lành sớm khuya.
Hiền lành được nhiều bề che chở,
Hung dữ không ai độ cho đâu,
Dù cho Phật lắm phép mầu,
Cũng không riêng vị người nào được ư.
Vì lẽ ấy cần qui chánh lộ,
Một lòng thành hối ngộ tu hiền,
Không không mà có Phật Tiên,
1692. Các Ngài chẳng phụ người hiền đức tâm.
Phật pháp vốn thậm thâm vi diệu,
Phải công trì mới hiểu tột nơi;
Đeo vào đừng phút nào lơi,
Nay không đắc đạo thì mơi cũng thành.
Mỗi đêm mỗi lời lành được hội,
Đâu là nơi nguồn cội đã tường;
Nguyện cùng Phật một lòng thương,
1700. Đạo gieo không chỉ thôn hương của mình.
Trống bát nhã đánh lên khắp chỗ,
Chuông đại bi dộng cả mọi nơi;
Tỉnh cho được khách trần đời,
Hết người mê muội mới thôi vận hành.
Hiện thân ở đảo gành xa thẳm,
Giống từ bi vẫn rấm khắp cùng;
Lóc lăn chiều uốn tứ tung,
1708. Lòng trong sau trước vẫn trong một màu.
Phật có dạy một câu bí nhiệm,
Rằng Con ơi! trong biển có vàng;
Muốn tìm phải lọc phải sàng,
Được vàng phải chịu gian nan trăm phần.
Câu ấy rất lý chơn tuyệt diệu,
Nên thân nầy vui chịu khó khăn;
Biến hình khi tục khi tăng,
1716. Cảnh nào cũng vẫn xả lăn thân vào.
Thật vàng dẫu lửa nào không sợ,
Có lóc lăn mới rõ giả chơn;
Ta-bà đâu cũng léo thân,
Mà nơi nào cũng như cơn gió lồng.
Trước sau cũng vẫn không bóng dáng,
Không để cho vướng máng sự gì;
Luôn ôm lấy dạ từ bi,
1724. Mượn đời để tạo những gì cao siêu.
Bề ngoài dẫu có nhiều sắc diện,
Bên trong luôn một chuyện đạo mầu;
Quê nhà khó hiểu cho đâu,
Tình riêng ôm giữ đạo mầu chung lo.
Thật có một, quyền do nhiều cách,
Tùy xứ người lao lách thích ưng;
Nhưng chung qui một bước chơn,
1732. Đưa dân chúng đến hưởng phần siêu sanh.
Chớ thấy vật bên mình biến hóa,
Mà vội vàng cho cả như nhau;
Bề ngoài vàng giống như thau,
Nhưng trong thực chất khác nhau rất nhiều.
Muôn năm cũng không tiêu mòn được,
Thật vàng mười sau trước chói chang;
Quê nhà chớ dạ nghi nan,
1740. Xin cùng đây một lòng vàng chớ phai.
Chịu khó nhọc giồi mài đạo đức,
Sẽ cùng đây qui nhứt ý nguyền;
Dù sao chớ để lơi duyên.
Một ngày nồng mặn đạo nên một ngày.
Tâm không bận trần ai nhứt vật.
Duyên lành gây khắp đất không chừa;
Lòng nầy ai hiểu được chưa,
1748. Nếu chưa hiểu rán, hiểu cho đến cùng.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 17:58 | |
| - tnthsp4:
Từ xưa đến ngay trong hiện kiếp,
Vì nặng duyên với khắp nhơn sinh;
Lao thân cõi tục muôn nghìn,
Để làm cho giống hữu tình mọc lên.
Nay cũng thế đâu quên lẽ ấy,
Đi đó đây tìm cái duyên xưa;
Nhờ Trời ban bố mốc mưa,
1756. Cho đâu đó được lòng vừa như nhau.
Dắt được một người vào cửa Phật,
Mừng còn hơn báu vật muôn xe;
Lời lành thấy kẻ không nghe,
Đớn đau như thể búa đe đập vào.
Đêm không ngủ vì câu suy lượng,
Ngày quên ăn bởi tưởng xa gần;
Nặng tình dân phải mòn thân,
1764. Mòn thân đâu quản miễn dân đồng tình.
Mối siêu nhiệm nơi kinh khó vạch,
Ở nơi lòng là mạch rán tìm;
Thấy lòng tất biết cổ kim,
Thấy tình dân quốc thấy miền kẻ xa.
Ngày nào được thấy ra điều ấy,
Tất cùng đây như chái với hiên;
Rán trau cho thắm lấy duyên,
1772. Quan-Âm, Thế-Chí ngồi bên Di-Đà.
Ngày hỷ lạc chính là ngày đắc,
Phút trùng lai ấy phút vinh quang;
Quê nhà lớn nhỏ khá toan,
Để cùng nâng chén huy hoàng gần xa.
Sự khổ sở tuy là lắm chịu,
Lòng không nao xứng điệu làm trò.
Tổ thầy tất đã hiểu cho,
1780. Chớ ngờ áo gấm mặc mò trong đêm.
Có một chuyện khiến thêm tin chắc,
Vào một đêm nước mắt đang tuôn;
Lòng sao chi xiết ưu buồn,
Trách hiền khốn đốn còn hung an nhàn.
Liền bên tai nghe vang tiếng nói,
Rằng con ơi! chớ vội trách phiền;
Phật Trời đâu có vị riêng,
1788. Hiền mà khốn đốn vì hiền mới đây.
Hung được sướng vì gây phước trước,
Phước hết rồi não nuột bá ban;
Chớ rằng hung được an nhàn,
Còn hiền khốn đốn trách than luật trời.
Thần minh khắp mọi nơi đều có,
Sự dữ lành lớn nhỏ thấy qua,
Không riêng việc đã làm ra,
1796. Trong lòng mới tính cũng là hiểu thông.
Xưa nay phép chí công chẳng lệch,
Chớ nghi ngờ làm chích lòng trên;
Thương người tâm ấy đáng nên,
Những điều nhân quả đừng quên xét vào.
Hiền khốn đốn chẳng nao núng dạ,
Không những là xong quả trước kia;
Phước nay còn được nhiều bề,
1804. Càng cam chịu được Phật quê càng gần.
Nghe nói thế ta lần nguôi dạ,
Nói trong lòng rằng cả việc chi;
Phú cho các đấng từ bi,
Xét xem cho chứng mê si được nhờ.
Tai lại tiếp nghe qua thêm nữa,
Rằng con ơi! chớ có nghi ngờ;
Mẹ thương mến đứa con thơ,
1812. Thế nào thì Phật cũng là thế ni.
Thương chúng đến quên đi cõi thọ,
Xuống hồng trần chịu khổ dường bao!
Thương đời đời chẳng xót đau,
Thường đem cay đắng chế vào Phật Tiên.
Ai nỡ trách kẻ điên ném đá,
Thấy con mê lòng dạ càng thương;
Con ơi! con trẻ nào tường,
1820. Thầy con chính ở bên giường con đây.
Ta nghe đến đoạn nầy rơi lụy,
Khối nhớ thương như lũy như thành.
Chỉ nghe tiếng nói đâu đành,
Phải cho thấy mặt thì tình mới ưng.
Đoạn nầy ta xin ngưng để đó,
Chờ kỳ sau sẽ có dịp bày;
Tiếp qua tiếng nói bên tai,
1828. Từ đêm cho chí những ngày đều nghe.
Cũng một hôm vào khuya vắng vẻ,
Tai liền nghe nhỏ nhẹ lời thơ:
Thanh phi thường thanh
Sĩ dị phàm sĩ;
Lưu nhi bất di,
Ngoại kỳ hữu lý.
Vĩ ý nan tương,
Đại nguyện hà tỷ?
Phật vô nhứt ngung,
Giáo hà lập vị?
Diện kiến nan tri,
Ấu nhi vô trĩ
Tâm dĩ độ tâm,
Lão hà nhứt lý?
Hòa thống phương phương,
Hảo chơn thử bỉ;
Nhứt nhược trì qui,
Trụ kỳ bạt vị.
Kệ rồi vắn tắt dặn dò,
1848. Khá đem mỗi chữ kết cho thành vần.
Tơ nhỏ sợi khéo đan dệt lại;
Nên gấm bông việc ấy đâu ngoa,
Con ơi! kệ một lời ra,
Có nhiều cơ mật rán mà xét suy.
Một để một việc chi cũng dễ,
Một ra mười sự hệ lắm con;
Khéo dùng phương tiện cho tròn,
1856. Nay không nên được hết còn hội nao.
Nói tới đây lời trao đã vắng,
Nằm gác tay lên trán nghĩ suy;
Ý nguyền nếu chẳng như y,
Ta còn lưu lại làm chi cõi trần.
Nghĩ đến đây tâm thần mỏi mệt,
Mắt nhắm đi đến lúc mơ màng;
Duyên xưa đâu khéo đem đàng,
1864. Người anh cách khoảng muôn năm lai hồi.
Rằng em ơi! chớ lời than chán,
Ý nguyền nên hay chẳng mặc tình;
Trước sau một chí hy sinh,
Sống hay chết cái thân mình kể chi.
Ở trần mãi đến khi toại nguyện,
Chừng nào không còn chuyện khổ đau,
Niết bàn kia mới nên vào,
1872. Còn người sầu khổ còn lao trong trần.
Em ơi! đạo gần xa cố bủa,
Hết lao đao đến thuở thanh nhàn;
Đang ngồi nơi chốn lâm san,
Nghe em than chán vội vàng xuống đây.
Anh thương em từ ngày xưa cũ,
Đến những nay chịu đủ âu sầu;
Lóc lăn còn thiếu chi đâu,
1880. Dấu chơn giẫm khắp địa cầu hỡi em.
Việc đã cận anh xem thấy rõ,
Không muốn em chán bỏ nửa đường;
Từ bi tâm ấy khôn lường,
Mừng cho em được nối đường Như-Lai.
Em đã chẳng mến say xác tục,
Đáng kính thay tâm lực đủ đầy;
Nhưng cần phải mượn xác này,
1888. Để làm xe chở nhơn loài qua truông.
Kể từ đây lời buồn tiếng thảm,
Nên vì anh để ngậm trong lòng;
Việc em anh đã cảm thông,
Mỗi lời than mỗi khiến lòng anh đau.
Vừa rồi được lời trao nhỏ nhẹ,
Em biết cho là kẻ nào chăng;
Ông già tóc bạc da nhăn,
1896. Bấy lâu thường ở bên màn của em.
Nghe lời ấy ta thêm ứa lệ,
Mầu nhiệm thay cho kẻ vô hình;
Từ lâu khắn chặt tâm tình,
Không riêng cho tiếng cho hình thấy luôn.
Một ý nghĩ sai đường Phật pháp,
Cũng ứng lời dạy gấp không quên;
Không nhờ ơn đức bề trên,
1904. Ta đâu dễ được hiểu nên thế này.
Không riêng ta dù ai cũng thế,
Nếu nhứt tâm gìn lẽ tu hiền;
Thì là sẽ được Phật Tiên,
Dạy cho các lẽ bí huyền chẳng không.
Xin chịu khó trì công khuya sớm,
Nếu không nên ta chẳng phải người;
Nào ta có dám nói chơi,
1912. Nói ra là dựa theo lời Phật Tiên.
Ngay như việc hoa liên ứng ngữ,
Cũng nói ra để gởi cho nhau;
Rõ điều mầu nhiệm siêu cao,
Hầu tu thêm nữa cho mau công thành.
Hoa còn nói muôn nghìn lẽ nhiệm,
Xin kể thêm yếu điểm ra nghe;
Vừa rồi những tiếng gớm ghê,
1920. Của muôn kẻ khổ dầm dề khóc than.
Tiếng ấy dứt hoa vàng liền động,
Quanh mình ta như sóng vỗ vào;
Tự nhiên cảm thấy nhức đau,
Thình lình hồn phách biến vào nơi đâu.
Trong lúc ấy mau lâu chẳng nhớ,
Khi tỉnh ra thân thể như dần,
Còn thân như đã mất thân,
1928. Chính ta chưa biết phép thần làm sao.
Một bài kệ từ đâu đưa lại,
Lời thanh tao giảng dạy như vầy:
Không khí khi đổi thay,
Nhơn vật tợ như say;
Thất thần trong tức khắc,
Tỉnh lại có mấy ai?
Sau khi nghe đến kệ này,
Trong lòng ta cảm thấy đầy sợ lo.
Ngày chung cuộc nếu mà thật thế,
Đến như loài trùng dế cũng tiêu;
Trong không như lượn sóng triều,
1940. Mũi như sảm đất làm sao sống đời.
Không nhờ Phật vãn hồi tánh mạng,
Lớn như voi cũng chẳng còn chi;
Có vầy mới gọi biến di,
Phật Tiên vì đó ra đi kêu gào.
Rán bớ ai dù sao cũng rán,
Qua hội nầy sống đặng muôn niên;
Nếu như thành được Phật Tiên,
1948. Lại càng thọ hưởng vô biên lạc nhàn.
Như rồi đóa hoa vàng đã hiện,
Nhiều cảnh mầu nhiều chuyện xinh tươi;
Vui hơn vui của loài người,
Ước mong khắp chúng sống nơi cảnh nầy.
Tu chín chắn đến ngay đó được,
Có Phật Ngài đưa rước tới nơi;
Việc nầy đâu phải xa vời,
1956. Xin nên tin chắc ớ người quê hương.
Đèn trên hoa còn đương thẳng ngọn,
Gió từ đâu ron rón thổi vào;
Ngọn đèn liền phất phơ mau,
Biến ra một cảnh trông vào thêm xinh.
Một Đức Phật ngồi trên sen báu,
Nhích miệng cười rồi bảo ớ con;
Chua vì bởi nó còn non,
1964. Chín rồi sẽ ngọt không còn chua đâu.
Nghiệp chưa sạch đành câu khổ báu,
Nợ xong rồi ai bảo trả thêm;
Gió ngưng thì sóng cũng êm,
Điều nầy con khá nhớ đem vào lòng.
Cảnh nầy tên là Không Diệu Hữu,
Lòng muốn chi có đủ ớ con;
Ngõ nhân tâm nọ chẳng còn,
1972. Thì là sẽ được sanh lên cảnh nầy.
Vậy con nhìn nơi cây bên cạnh,
Biết bao nhiêu trái chín thơm tho;
Ăn vào cả tháng được no,
Không cần đại tiểu vẫn là tự tiêu.
Y phục luôn tùy theo ý muốn,
Rồi tự nhiên hiện cuốn nơi thân;
Gọi là như ý diệu thần,
1980. Cõi Không Diệu Hữu toàn dân như nguyền.
Ngày chọn lọc tại miền hạ giới,
Kẻ hữu duyên sẽ tới cõi nầy;
Là ngày không cánh mà bay,
Không trồng tỉa vẫn đủ đầy ấm no.
Con ơi! rán truyền cho dân biết,
Tận diệt mà không diệt ớ con;
Mất nhưng mà vẫn thường còn,
1988. Ấy ngày lập hội đầu non tại trần.
Không riêng Phật hóa thân khắp chỗ,
Các Thần Tiên cũng đổ xuống phàm;
Mạnh ai thì việc nấy làm,
Tùy duyên cứu các linh căn đem về.
Nói xong Phật tay xòe năm ngón,
Chiếu sáng như năm ngọn đèn pha;
Ngũ phương liền thấy hiện ra,
Vô biên thế giới thật là đẹp xinh.
Mỗi thế giới dạng hình mỗi khác,
Có vị thì nhiều mắt nhiều tay;
Cõi thì to lớn hình hài,
2000. Cõi thì nhỏ thó như người thế gian.
Có cõi đất bằng vàng chói rực,
Có cõi thì châu ngọc lót đầy;
Cõi thì toàn thấy những cây,
Không nhà không cửa đêm ngày sáng trưng.
Mỗi bước có hoa nâng đỡ gót,
Tai luôn nghe lời Phật dạy khuyên;
Muốn chi tức được có liền,
2008. Dù rằng việc ấy ở miền khác xa.
Chim biết nói gió hòa nên nhạc,
Nước tùy lòng ấm mát đổi thay;
Cõi trần khó sánh vào đây,
Càng xem càng thấy mê say thêm nhiều.
Phật liền cất tiếng kêu ớ trẻ,
Ở thế gian ít kẻ thấy đây;
Tưởng rằng chỉ có trần ai,
2016. Chớ không còn có cõi ngoài khác đâu.
Thế nên cứ bấu câu tục lụy,
Cạnh tranh nhau nhục sỉ chẳng màng;
Rốt như bọt nước hồ giang,
Chỉ trong chốc lát rã tan chẳng còn.
Cảnh chơn thật mắt con đã thấy,
Khi trở về nhắc lại cho người;
Duyên con đã nặng với đời,
2024. Lời con sẽ được lắm người nghe theo.
Thảng có kẻ trả treo chống chỏi,
Bởi kém duyên nên gọi cạn lời;
Con ơi! gặp lúc hạn trời,
Giống lên có một khô thời mười mươi.
Được nghe ít bị cười nhiều lắm,
Không can trường khó rấm giống duyên.
Cuối cùng với buổi đầu tiên,
2032. Lòng người thương ghét đổi liền không ngưng.
Con ơi! mỗi bước chơn đặt xuống,
Bằng ít oi dốc luống dẫy đầy,
Muốn noi gương phẩm Như-Lai,
Chớ nao núng tiếng nhiếc xài thế gian.
Người không hiểu thì càng thương xót,
Cố dạy cho đến lúc hiểu rành;
Kẻ say giận nó sao đành,
2040. Không mê ai cũng hiền lành như nhau.
Con là một trong bao Phật tử,
Gương từ bi khá giữ cho minh;
Gặp điều thử thách đến mình,
Phải luôn nêu rõ chơn tình cao siêu.
Núi cao mấy rừng nhiều thế mấy,
Cũng chẳng làm trở ngại khoảng không;
Khoảng không ấy ví cho lòng,
2048. Núi rừng ấy ví trần hồng nọ kia.
Ở trong cõi trần mê vẫn tỉnh,
Cùng Phật đâu khác tính ớ con!
Huyễn thân tuy mất mà còn,
Rách y phục chớ đâu mòn thịt xương.
Gạn xét kỹ rồi trương cung đạo,
Bắn cho tan giặc bạo trong đời;
Ngàn vàng dễ kiếm con ơi!
2056. Một câu chánh-giáo muôn đời khó nghe.
Hãy quí trọng hơn là châu báu,
Ngày đêm luôn trì bảo chớ quên;
Riêng mình đạo quả được nên,
Rán dìu bá tánh cùng lên sen đài.
Phật Ngài nói đến đây liền nín,
Thoắt nhiên trên tụ đỉnh chiếu ra;
Tự nhiên không thấy Phật- Đà,
2064. Chỉ còn thấy có đóa hoa với đèn.
Trong lòng ta ngợi khen đáo để,
Các Phật đều tướng thể giống nhau;
Đẹp hơn hết thảy vật nào,
Mặt mày vui vẻ lời trao dịu dàng.
Vừa rồi dạy mọi đàng hơn thiệt,
Chơn lý thay! Siêu việt lắm thay!
Mỗi câu mỗi chữ đều hay,
2072. Càng nghe càng khiến mê say khó lờn.
Muôn kiếp khó quên ơn đại độ,
Đạo quyết thành để có đáp ơn;
Ớ người trong cõi thế nhơn,
Nghe đây rồi thấy tâm thần nghĩ sao?
Há không sớm bước vào cửa Phật,
Để qui y giải cuộc trần ai,
Muốn tu tu chớ hẹn ngày,
2080. Kiếp đời không thể kéo dài được đâu.
Trễ một dịp khó âu gặp cuộc,
Trời tối mà gặp đuốc là may;
Mộng trần còn có bao dai,
Có đeo cũng chẳng đeo hoài được đâu.
Ta lặn lội vì câu giục thúc,
Chịu nắng mưa bởi cuộc tử sinh;
Nói ra với cả chơn tình,
2088. Muốn ai cũng được kính tin đạo mầu.
Ta xin viết những câu sau đấy,
Khi nhớ nhau đọc lấy đỡ buồn:
Đã ngót năm năm trường,
Ta xa cách quê hương;
Nhưng đối với già trẻ,
Vẫn giữ một lòng thương.
Thương đến rơi nước mắt,
Thương đến nhói can trường;
Xác thân tuy lưỡng lộ,
Tâm hồn vẫn nhứt phương.
Quên ăn vì quá nhớ,
Mất ngủ bởi nhiều thương;
Thân trên giường ngoại quốc,
Mộng về đến quê hương
Xưa nay vì tâm bịnh,
Hiện còn da bọc xương;
Hỡi người trong quê nội,
Lòng ta có được tường?
Cách nhau xin chớ cách,
Rán đợi cuộc phùng tương;
Dẫu gặp muôn thử thách,
Xin chặt giữ một đường.
Dù ai có chê ghét,
Đây đó vẫn yêu thương;
Chớ để danh cám dỗ,
Đừng cho lợi gạt lường.
Khó khăn dù cách mấy,
Tu vẫn cứ tu luôn;
Ví dụ ngày mai mốt,
Được xuôi gió thuận đường.
Gót chơn người mong đợi,
Sẽ trở lại quê hương;
Từ đây cho đến đó,
Nhớ nuôi chí quyết cương.
Khổ sầu sẽ đền trả,
Cho nhau chén quỳnh tương.
Mỗi ngày được nhớ đọc luôn,
2126. Mối tình đây đó càng vương thêm nhiều.
Hai ngã được cùng theo một ý,
Việc lớn lao thế mấy cũng nên;
Đạo mầu càng chói chang lên,
Không riêng một chỗ mà lên khắp cùng.
Trong cửa Phật có trung lẫn hiếu,
Cũng có luôn cả điệu nghĩa nhân;
Muốn cho đáp vẹn trọng ân,
Người trong cửa Phật giữ thân cho tròn.
Thân ấy vẹn phận con phận tớ,
Vẹn cả tình quốc thổ quốc dân;
Nếu là thật đạo chánh chơn,
2138. Hòa quang thì có yếm trần thì không.
Mượn cảnh tịnh cho lòng bình tịnh,
Chưa phải là chơn chính pháp môn;
Được luôn tự chủ tâm hồn,
Dù trong chỗ loạn nhưng lòng vẫn yên.
Có thế mới dụng quyền độ thật,
Trong bùn lầy mà chất vẫn thanh;
Quê nhà xin rán nghiệm rành,
2146. Nguồn chơn nắm được tu hành mới nên.
Nơi đất khách nào quên cố quận,
Ở trần gian vẫn tưởng Phật- Đài;
Dù cho xa cách bao dai,
Lòng mong trở gót không ngày nào quên.
Tuy giấy trắng mực đen thô đạm,
Nhưng lòng son đã chạm vào đây;
Xem đây tất biết lòng này,
2154. Muôn xưa cho đến ngày nay một niềm.
Niềm ân ái từ kim chí cổ,
Đã gieo sâu trong chỗ tu hành;
Giữa ta cùng khắp nhơn sanh,
Chết thân muôn lượt nhưng tình sống luôn.
Người dẫu phụ ta không thể phụ,
Ở nơi đâu cũng nhớ thương luôn;
Riêng thân khổ chẳng hề buồn,
2162. Thấy người bị khổ mắt tuôn lệ dài.
Ước sao khắp ai ai cũng thế,
Cùng với đây tương kế tâm linh;
Loạn cho thế mấy cũng bình,
Ai nghe cũng mến ai nhìn cũng ưa.
Mạch sầu nầy nếu chưa lắp được,
Huyết lộ trong dân nước còn rơi;
Khóc không vì phận xa vời,
2170. Mà là khóc cái cuộc đời loạn ly.
Khóc vì cửa từ bi vắng dạng,
Khóc người tu không rán lo tu;
Không riêng lúc thức khóc đâu,
Đến trong lúc ngủ cũng châu rơi dầm.
Trước mặt Phật vẫn đem bày tỏ,
Trong lòng son luôn cố nhớ lo;
Lời nào của Phật dạy cho,
2178. Tiện bề nói hết ra cho người đời.
Chừng nào được khắp nơi hối ngộ,
Thì những lời khuyên dỗ mới ngưng;
Còn người chơn bước chơn dừng,
Ta còn đem hết tinh thần réo kêu.
Xin vui vẻ nghe theo lời chánh,
Để làm xong hoàn cảnh người tu;
Mới không luống uổng công phu,
2186. Người đâu khinh bỉ mình đâu hổ lòng.
Ta xin kể chuyện bông thêm nữa,
Để cùng nghe hầu sửa lấy tâm;
Hoa đèn còn đứng như găm,
Ta còn đang đứng ngó chầm vào hoa.
Trong lòng ước Phật- Đà dạy kỹ,
Đâu chơn và đâu ngụy đành rành;
Ngõ hầu nhắc lại nhơn sanh,
2194. Dựa theo nơi đó để hành cho y.
Vừa nghĩ thế tức thì hoa động,
Cánh thứ nh. gần rún của hoa;
Bắn lên một ánh sáng lòa,
Chót trên ánh sáng Phật- Đà ngồi nghiêm.
Tướng đẹp chúng cổ kim khó sánh,
Gương lành trong bá tánh đâu so;
Mùi hương bay rất thơm tho,
2202. Gió đưa thấy mát hơn là gió thu.
Phật liền nói lên câu vi diệu,
Rằng con ơi! nên hiểu như vầy:
Thật ấy là chơn,
Giả ấy là ngụy;
Chơn không dối lừa,
Ngụy hay gian trá.
Chơn không ngã nhơn,
Ngụy thì nhơn ngã;
Không chấp là thật,
Còn chấp là giả.
Tâm chơn chơn hết,
Tâm ngụy ngụy cả;
Ngụy vốn tại mình,
Chơn không do kẻ.
Không sáu trần thật,
Có sáu trần giả.
Chơn có không không,
Ngụy không có có.
Nói làm một thật,
Làm nói hai giả;
Chơn ngoài như trong,
Ngụy trong khác cả.
Thương khắp là thật,
Yêu riêng là giả;
Chơn thí không ngừng,
Ngụy không phóng xả.
Sau trước một thật,
Đuôi đầu hai giả;
Không vướng chơn hết,
Có đeo ngụy cả.
Không sắc là thật,
Còn tướng là giả;
Chơn thì chơn thành,
Ngụy thì ngụy quả.
Con cứ lấy đây,
Ngụy chơn hỏi dạ.
Phật Ngài vừa nói tới đây,
2240. Hào quang liền mất mặt mày hết trông.
Ta đứng mãi như trồng chẳng động,
Bởi kệ mầu đang ấn trong tâm;
Càng suy càng để ý tầm,
Càng hay càng thấy cao thâm vô cùng.
Vì say kệ mắt ngưng không nháy,
Ngó Phật khi hết thấy mới thôi;
Hào quang cao vọi ngất trời,
2248. Khéo thay Đức Phật lại ngồi lên trên.
Việc chơn ngụy hư nên dạy kỹ,
Mỗi lời gồm đủ lý cạn sâu;
Hiểu ra cho tận đuôi đầu,
Mới hay lời Phật nhiệm mầu vô biên.
Xin chớ lấy ý riêng xét nghiệm,
Đem tấm lòng cao viễn suy ra;
Việc chơn hay ngụy cũng là,
2256. Từ trong tim não sanh ra mọi điều.
Lấy khuôn mực ở nhiều kinh điển,
Để làm nơi văn kiến ít lầm;
Hành sai vì bởi mê tâm,
Tâm mê hết được, việc làm không sai.
Nhớ cho kỹ bớ ai người thế!
Hãy tỉnh ra chớ để mê luôn,
Khổ đời còn diễn lắm tuồng,
2264. Chậm qua một khúc rối cuồn nhiều ngoe.
Theo lời Phật ta nghe từ trước,
Cho đến nay lần lượt kể ra;
Không riêng lời của Phật- Đà,
Mà nhiều vị khác cũng là nói luôn.
Còn một vị chờ cơn thuận tiện,
Ta sẽ đem phổ biến ra nghe;
Nói ra ai cũng không dè,
2274. Phong thần ấy chuyện đã nghe lâu rồi.
Ta nói hết không lời nào tiếc,
Nói cho người được biết để tu;
Tu cho khỏi kiếp lao tù,
Tu coi đại hội trên bầu thế gian.
Con đắc đạo cứu an cha mẹ,
Cha mẹ thành dìu trẻ qua truông;
Chồng nên vợ được nên luôn,
2282. Vợ thành chồng cũng qua cơn thảm sầu.
Nên hợp sức bắt sâu nhổ cỏ,
Một hột gieo được trổ nhiều bông;
Khuyên nên đồng vợ đồng chồng,
Cha con nhứt trí giống dòng nhứt tâm.
Dịp may cả muôn năm mới gặp,
Chớ bỏ qua hãy gấp ôm vào;
Để xem kẻ cỡi hoa lau,
2290. Đi qua biển cả thế nào mới vui.
Trời đất lúc tối thui tất cả,
Ngọn đèn thần sẽ chóa khắp nơi;
Hiền lành sẽ được đèn soi,
Dữ hung đành chịu như người quáng manh.
Lúc khát chẳng ai dành cho nước,
Khi đói không kẻ giúp cho cơm;
Khổ thân còn khổ linh hồn,
2298. Khổ trong muôn kiếp đem dồn một khi.
Ngày ấy sẽ lần đi tới chỗ,
Lá khô thì sẽ đổ chẳng không;
Liệu mình cho được sạch trong,
Ngày khai đại hội ấn rồng được phê.
Tỉnh thức sớm chớ mê ngủ nữa,
Hội nầy không còn thuở nào hơn;
Chừng tai nghe được tiếng đờn,
2306. Mây sầu tan cả mưa buồn tạnh xong.
Những lời nói trong bông sen đấy,
Không dễ nghe chớ lấy làm thường;
Toàn lời của Phật mười phương,
Nói ra vì bởi lòng thương thế trần.
Liền sau khi Phật thân ẩn dạng,
Trong hoa liền trỗi bản thanh tao;
Một bài thơ diệu làm sao!
2314. Thơ rằng ớ trẻ tại trào Hạ nguơn.
Mặc cho cuộc mưa đơn gió kép,
Vẫn một lòng sắt thép trơ trơ;
Rán đưa người đến bến bờ,
Sóng dù muôn lượn chớ ngơ máy chèo.
Xưa Phật đã qua đèo lội suối,
Chẳng quản chi gối mỏi chơn đau;
Lòng tu trước cũng như sau,
2322. Mến tu hơn mến sắc màu thế gian.
Gặp thử thách trơ gan chịu đựng,
Suốt khoảng tu không sướng một ngày;
Nhưng lòng vẫn được dẻo dai,
Chí tu càng thấy mỗi ngày thêm tăng.
Nếu không chịu khó khăn như thế,
Quả Như-Lai đâu dễ đắc thành;
Lợi danh chẳng mến lợi danh,
2330. Ái tình mà chẳng ái tình buộc vương.
Thật là một tấm gương vĩ đại,
Đáng chúng sanh sùng bái muôn đời;
Con ơi! gương ấy khá noi,
Khỏi cần phải nói thêm lời chi hơn.
Vừa đến đây nhạc ngưng lời dứt,
Hoa và đèn cũng mất theo luôn;
Lòng ta vui trộn lẫn buồn,
2338. Vui ra nước mắt buồn tuôn lệ dài.
Cảm ơn đức Như-Lai vô-lượng,
Khéo tùy cơ biến hiện đủ môn;
Xin thề dù xác muôn chôn,
Vẫn không quên được trọng ân Phật Ngài.
Không thành đạo lòng đây há toại,
Chẳng tỉnh đời sao phải người tu;
Đuốc soi gấp mấy trăng thu,
2346. Lời khuyên hơn lá rừng sâu mới vừa.
Xin đồng đạo chớ ngơ ngẩn dạ
Rán đọc lời biên tả nơi đây,
Lòng thương nhau chớ nên khuây,
Đường tu cứ bước đừng ngày nào thôi.
Nơi hải ngoại xa xôi cách trở,
Mượn bút nghiên nầy có thăm nhau;
Chúc cho trí tuệ được mau,
2355. Thanh bình sớm hưởng đạo mầu sớm nên.
Tên người Thanh-Sĩ chớ quên.
Viết xong tại Đông Kinh
Ghi chú:
(1) ‘Tiên Phật được thiềng’: ‘được thành’
MUỐN CHO ĐÂY ĐÓ
Đây đó một lòng son,
Nhìn về cảnh nước non,
Trong lòng mình tự hỏi,
Sao vẹn chữ mất còn.
Sao vẹn chữ mất còn,
Không hổ phận tôi con;
Ngoài đời hay trong đạo,
Cũng ở trong nước non.
Cũng ở trong nước non,
Há quên phận tôi con;
Chữ hảo hòa phải liệu,
Đừng để nước non mòn.
Đừng để nước non mòn,
Ấy là phận tôi con;
Tổ tiên dạy như thế,
Con cháu rán lo tròn.
Con cháu rán lo tròn,
Chớ để cho nước non;
Người ngoài leo lên giẫm
Làm cho nó tiêu mòn.
Làm cho nó tiêu mòn,
Mòn cả đến cháu con;
Nước cạn thóc không mọc,
Khi gìn vẹn nước non.
Khi gìn vẹn nước non,
Nước non của cháu con;
Của chung của tất cả,
Đừng để ai riêng bòn.
Đừng để ai riêng bòn,
Ngồi trên chót thon von;
Quên đau khổ kẻ dưới,
Lợi dụng chữ nước non.
Lợi dụng chữ nước non,
Đảo ngược phận tôi con;
Tình nghĩa chia đôi ngả,
Quên hai chữ mất còn.
Quên hai chữ mất còn;
Tự hỏi lấy lòng son:
Có nhục hay là chẳng?
Ai là phận tôi con?
Thanh Sĩ.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: HỠI QUÊ NHÀ August 15th 2020, 17:59 | |
| HỠI QUÊ NHÀ - hqnp1:
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sương làm mờ mặt cung trăng,
Nhưng mà gương sáng chị Hằng vẫn soi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tuy là thân lắm lóc lăn,
8. Nhưng không mất hạnh nhà tăng chút nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù là bổn nguyện nhà tăng,
Nhưng lòng yêu nước vẫn hằng nhớ luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lòng đâu quên chuyện khóc măng,
16. Đồng bào hai chữ lại càng nhớ hơn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xác ngăn hồn khó thể ngăn,
Lúc nào hồn cũng vẫn hằng về luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thương nhau giọt lệ khôn dằn,
24. Khóc cho đến đỗi mắt gần mù sưng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Vì đâu quên ngủ quên ăn,
Phải chăng vì chữ giáo hoằng mà ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đi đâu cũng Phật Pháp Tăng,
32. Dù thân phải chịu lóc lăn đủ điều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thương nhau nên mới khuyên răn,
Cách nhau nay đã ngót năm năm Trời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cũng vì cơ vận trầm thăng,
40. Chiếc đò của khách thiền tăng xa vời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Biển non tuy cách muôn ngằn,
Nhưng lòng chớ cách mới rằng thương nhau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đạo mầu khá giữ cội căn,
48. Dù đau đớn mấy xin đừng bỏ qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mỗi khi nghe bị khó khăn,
Lòng như lửa đốt thêm xăng chế vào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trẻ già thương xác cuồng tăng,
56. Tiếng cầu Trời Phật đến vang tai này.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tấm lòng của kẻ xa gần,
Lúc nào đây cũng cám ơn vô cùng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có quên trong một khắc gian,
64. Xin nên nhớ lại chớ đành quên luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho muôn lớp lưới giăng,
Kéo thần trí tuệ cũng lần cắt ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta đâu sướng mặc sướng ăn,
72. Luôn cam khổ sở để hoằng đạo tông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đạo đời nghĩa vụ nặng oằn,
Khối tình hòa hảo phải càng gắn keo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một cây không thể nên rừng,
80. Hợp nhiều người lại mới nưng nổi nhà.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hãy cùng tương ái tương thân,
Nắm tay nhau khắp xa gần chớ buông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Gốc lành nhớ khá tưới tăng,
88. Một ngày lãng bỏ khô khan một ngày.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thương nhau như đuốc thêm trăng,
Ghét nhau như vượn lìa cành hết trông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thanh liêm nên nhớ ngày hằng,
96. Đừng ham của hối bỏ lằn mực công.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hiếu là lớn của đạo nhân,
Rán tu để đáp công ơn sinh thành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thấy ai gặp việc khó khăn,
104. Nên ra tay giúp xin đừng ngó lơ.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho thiếu mặc thiếu ăn,
Cũng ôm bụng chịu việc gian chớ làm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đừng quên câu chuyện Đường Tăng,
112. Tây phương quyết đến yêu chằn mặc yêu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xưa nay những kẻ ác gian,
Mấy ai được hưởng giàu sang lâu dài.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dục lòng dù mấy cố ngăn,
120. Giữ gìn cách ở thói ăn nhân từ.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đắm say nơi các sắc trần,
Khác nào ong bướm nhện giăng bay vào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lửa lòng muốn dập khó khăn,
128. Dập xong sẽ thấy sáu căn tịnh bình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Không nhờ hai chữ qui căn,
Làm sao tránh khỏi sáu đàng chuyển luân.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khi tre vừa mới lên măng,
136. Muốn nên kèo cột xin đừng ăn tươi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Giận chi mặt nước nhó nhăn,
Nếu không gió thổi sóng bằng lặng ngay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Muốn cho hết cỏ nhổ căn,
144. Nhánh càng chặt mé càng đâm ra chồi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Việc chi đều cũng do tâm,
Lấy tâm làm chủ đạo hằng được xong.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có hình tướng dễ cản ngăn,
152. Không hình tướng rất khó dằn lắm ư.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lấy tâm để xử trị tâm,
Ấy là căn bản không lầm khá ghi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngày nào còn nước còn trăng,
160. Mối tình cố hữu thân bằng không quên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tâm bằng vạn sự đều bằng,
Hằng tâm nếu có, có hằng sản ngay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tuy là ngắn ngủi nén nhang,
168. Mười phương qui tựu trong làn khói bay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khi người đau dạ mặt nhăn,
Bên đây ta cũng ngực ran châu mày.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cũng vì lo cuộc trầm thăng,
176. Nên đây tảo Bắc bôn Nam không ngừng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngày nào còn kẻ khó khăn,
Ta còn lo việc bủa giăng đạo mầu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hoàn cầu chưa được bình quân,
184. Tiếng kêu hòa hảo phải cần kêu luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngã nhân chưa được phá bằng,
Con người Nam Bắc còn căng mối thù.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu ai cũng giữ đạo hằng,
192. Thì cơn sóng dậy đất bằng đâu sanh.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đã cùng một giống Hồng Bàng,
Nên hòa hợp lại chớ toan chia lìa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Để cho một giọt máu văng,
200. Anh hùng thế mấy cũng rằng tội nhân.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho được bậc cao quan,
Cũng đừng lên mặt với làng khi xưa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rác dơ đem đổ đầy đàng,
208. Trách sao giòi tửa ruồi lằng sanh ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lấy lời Phật Thánh làm căn,
Việc nhà hết rối nước càng mau yên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chuyện người Bát Giới, Sa Tăng,
216. Không theo Tam Tạng đâu thăng Phật đài.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tuy là hùm rất hung hăng,
Nhưng còn không nỡ xé ăn con mình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bạ làm bạ nói bạ ăn,
224. Sánh cùng với loại bốn chân khác gì.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đừng chờ thấy núi đá văng,
Mới lo rót nước thắp nhang không rồi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lời nào của Phật dạy răn,
232. Chắc như đinh đóng chớ rằng sai ngoa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xác Đông, hồn chẳng lìa Nam,
Mộng trung thường đến viếng thăm xa gần.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bên tai thường được nghe rằng,
240. Con ơi! Trong núi có vàng rán moi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khuyết tròn là phận cung trăng,
Trớ trêu máy tạo khéo đằn mình theo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Còn chua chớ vội gì ăn,
248. Để ăn khi chín mới càng ngon hơn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có trồng tất được có ăn,
Lúa đâu mọc giữa gối chăn mà chờ.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tuy nay tu niệm khó khăn,
256. Nhưng mai sau cuộc tai nàn được qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đá không đập mạnh vào nhau,
Đụng cho lấy có lửa nào văng ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thất mùa lúa đổ rán cằn,
264. Mỗi nơi một hột góp thành đầy nong.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu đây chỉ nghĩ riêng thân,
Ở trong quê nội đâu cần đi xa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhớ câu môi hở lạnh răng,
272. Giữa nhau có sự liên quan phi thường.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Được lòng tín nhiệm của dân,
Vững bền hơn Vạn Tường Thành Trung hoa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nước thì cậy có nhơn dân,
280. Còn vì đạo lý thì cần chư môn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Gây nên một kẻ thù hằn,
Thêm cho mình một khó khăn ích gì.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ức lòng mấy cũng rán dằn,
288. Đừng vì chuyện nhỏ mà làm hại to.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thà cam riêng chết một thân,
Chớ không nên để hại dân nhiều người.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dốc cao muốn cuốc cho bằng,
296. Phải cần ra sức ngày hằng mới nên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Việc nào lại chẳng khó khăn,
Bền lòng mới được dễ dàng chẳng không.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Suốt đêm ta mãi trở trăn,
304. Vì còn lắm cuộc khó khăn bên mình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta vì sự sống phải ăn,
Bất cần mùi vị dở ngon thế nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bóng người đồng đạo xa gần,
312. Lúc nào cũng hiện trong lòng của ta.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nghiệp oan dù lắm buộc chằng,
Nhớ đem tâm huyết gỡ lần cho ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù ai có lắm vật giằng,
320. Chưa nên cãi lẽ thì cần nhịn đi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Vận thời dường thể cung trăng,
Khuyết qua rồi kế đến tròn chẳng không.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Từ sang nơi đảo Phù Tang,
328. Vì câu hoằng hóa biến trang đủ điều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Không vào tận chốn hùm hang,
Thì đâu bắt được cọp con đem về.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bề ngoài đủ dáng tục trần,
336. Bên trong duy nhứt tinh thần nhà tu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dụng tâm của kẻ cuồng tăng,
Thường tình lấy nhục nhãn quan khó nhìn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Riêng ta nào muốn lóc lăn,
344. Vì lòng thương khắp nhơn gian phải đành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nơi đâu cũng có thiện căn,
Tùy duyên hóa độ không phân giống nòi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Từ ngày lâm chốn hồng trần,
352. Lệ rơi góp lại cũng gần bằng sông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lòng thương nhau lại càng tăng,
Dù cho xa cách bao năm chẳng mòn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Làm sao đem đọ cho bằng
360. Đây gìn lòng một đó đừng dạ hai
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Vận gần tái ngộ sẽ gần,
Trời không nỡ phụ con dân hữu thành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đêm nào ta cũng băn khoăn,
368. Lòng mong bá tánh sớm toan cho vừa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mạch sầu này khó nổi ngăn,
Ý nguyền nếu chẳng kết thành tốt tươi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mặc cho sâu bọ cứ ăn,
376. Nhà nông lại cũng lo mằn bắt luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Phạm rồi liền biết ăn năn,
Tự trong tâm phát nguyện rằng chừa luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tâm lành nếu được gia tăng,
384. Thì lòng hung ác sẽ lần mất đi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rán lo tu luyện sáu căn,
Đi theo đường chánh cản ngăn đường tà.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho trong giới thánh tăng,
392. Không chuyên nhất niệm cũng lăn ra phàm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Từ nơi cửa tục làm tăng,
Chúng sanh thành Phật sự năng có thường.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sóng tâm muốn được lặng bằng,
400. Gió trần sáu ngọn tắt lần từ đây.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cá lên bờ bị kiến ăn,
Kiến rơi xuống nước cá săn làm mồi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Được thời chớ quá lung lăng,
408. Nhín ra phân nửa để dành lúc nguy.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tuồng đời như chén nứt răn,
Chỉ chờ có kẻ mạnh dằn bể luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu chưa phải cuối chuyến thoàn,
416. Ta nào gọi khách quá giang làm gì.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hào hoa các cuộc lợi danh,
Khác nào ánh sáng sao băng giữa trời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sá chi chiều tối mây hằng,
424. Đắm mê giờ trước tan tành giờ sau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu chưa gần cuộc tiêu tan,
Đây đâu nhọc sức kêu vang khắp Trời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngày đêm tai vẫn nghe rằng,
432. Con ơi sự thế như lằn sóng nhô.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nghĩ đời như đám mây giăng,
Nên lòng đây vẫn lo toan không ngừng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dựa theo lời Phật khuyên răn,
440. Đây liều thân chẳng còn màng khổ lao.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Phật ngài đã bảo chắc rằng,
Từ nay đến cuộc tiêu tàn không xa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Vì câu văn vật mộng hoàn,
448. Nơi nào đây cũng kêu vang tu hành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lời ta không nói lăng nhăng,
Nói câu chơn lý nói đàng thật hư.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Theo lời đây đã khuyên răn,
456. Nếu không thành đạo đây đành đọa sa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lời đây khuyên chớ nghi nan,
Khá nên nung nấu tinh thần Phật gia.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta đang lệ đổ khôn ngăn,
464. Viết ra lời lẽ khuyên răn người đời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đau lòng như ruột ai phăn,
Trách thay vận bỉ đưa đàng quá xa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mỗi đêm ta mỗi ra đàng,
472. Nhìn Trời xa rộng ta càng ghen tương.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thích Ca nhập được Niết Bàn,
Ta làm sao cũng nên hàng Phật nhi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sau khi tỉnh giấc mê man,
480. Lòng ta nhớ rõ mọi đàng muôn xưa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có hồi ta ở cửa tăng,
Chưa rồi lòng tục chịu ngằn khổ lao.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Muôn năm mặt biển lặng bằng,
488. Gió đùa một phút nhố nhăn khắp cùng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lấy tâm làm chủ sáu căn,
Sáu trần tất chẳng xâm lăng đến mình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tề Thiên tuy quá lung lăng,
496. Nhưng lời Tam Tạng vẫn hằng nghe theo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rui mè tuy lắm rối nhăn,
Nhưng không rời cột nên căn nhà lầu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tâm khi lấy được thăng bằng,
504. Lên Tiên cũng dễ xuống trần khó chi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xuống thang chỉ một khó khăn,
Leo lên dốc đứng muôn ngàn gay go.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu không chịu được khó khăn,
512. Làm sao vượt khỏi biển trần lao đao.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 17:59 | |
| - hqnp2:
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu không sắp đến hạ màn,
Ta nào khuyên lựa con đàng đi ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bút nghiên ta viết mỗi hàng,
520. Mỗi pha lẫn giọt lệ tràn vào đây.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta không riêng khóc cho thân,
Khóc chung thế sự tranh phân nhiều điều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mỗi lời ta nói có ngằn,
528. Xin xem xét kỹ chớ rằng nói chơi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lạ gì chó sủa cung trăng,
Việc chưa từng thấy, thấy càng sanh nghi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một hôm ta được nghe rằng,
536. Chánh đường mặc kệ kêu thằng hay ông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cứ làm theo phận nhà tăng,
Độ đời lo độ nói rằng mặc ai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thấy sen đang độ búp măng,
544. Đâu đành bỏ nó héo nhăn nửa chừng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Muôn xưa còn đã thề rằng:
Còn người đau khổ là còn hóa thân.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mặc dù biển lắm sóng nhăn,
552. Mặt trời cứ mọc, mọc càng thêm cao.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Muôn năm chỉ một ngày thăng,
Không tu còn muốn nói rằng sự chi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngồi nơi hải đảo Phù Tang,
560. Lòng ta luống những không an cho đời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bỏ đi các việc lằng nhằng,
Đời không tồn tại đạo hằng khá lo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một mình phòng nọ một căn,
568. Suốt canh ngồi nghĩ trầm thăng sự đời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Quyết không thua mặt chị Hằng,
Hoàn cầu đâu cũng rọi lằn điển quang.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Gấp hơn tướng trận muôn ngằn,
576. Ta đang đối địch với đàng học kim.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chủ trương đúng bậc chơn tăng,
Không theo lối cũ cố ngoan hẹp hòi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một lời ta đã nói rằng,
584. Biết bao nhiêu kẻ luận bàn dở hay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta luôn vung ngọn gươm thần,
Dây oan của khách hồng trần cắt đi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lấy thân này để làm thoàn,
592. Đưa đời qua khỏi lầm than ái hà.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhiều khi suốt buổi quên ăn,
Mà không biết đói vì toan sự đời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nay đà ngót đã năm năm,
600. Lòng thương già trẻ còn nằm hôm qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đức Từ Bi lớn vô ngằn,
Bảo ta rằng cứ giáo hoằng ớ con.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Theo lời của Phật dạy rằng,
608. Ta dù phải bỏ xác trần cũng vui.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đêm nào ta cũng nhìn trăng,
So mình khách địa lòng càng xót đau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Biết rằng mây lắm bủa giăng,
616. Trước sau trăng cũng là trăng ngại gì.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tớ thầy đồng một bổn căn,
Bước chơn cứu thế lòng hằng toan lo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xưa kia ta cũng làm tăng,
624. Nay đâu quên được bổn năng cứu đời,
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trong lòng nhớ mẹ muôn ngằn,
Vì câu bĩ thới nén dằn trong tim.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lòng thương mẹ với thương dân,
632. Bên tình bên hiếu xử phân sao vừa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu riêng thương mẹ thương thân,
Ở trong đất nước sướng hơn đi ngoài.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Được người nghe tiếng khuyên răn,
640. Lòng mừng hơn được muôn cân vàng ròng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nước làm đỡ khát thế gian,
Đạo làm hết khổ muôn ngàn sanh linh.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu thân này lấy nghiền tan,
648. Lửa sầu rưới tắt đành cam chịu nghiền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thật ra không chút tiếc thân,
Tiếc lòng của khắp nhân dân tiêu mòn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta chưa khóc mẹ một lần,
656. Mà thường khóc việc thế trần muôn khi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ước gì có cánh chim bằng,
Bay về che khắp ruộng làng hạn khô.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lời ta cứ nói khăng khăng,
664. Cuộc đời đã mỏng khá năng tu hành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta không nói chuyện hoang đàng,
Nói điều trước mắt để bàn cho thông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chia nhau từng món mặc, ăn,
672. Mới rằng đồng chủng, mới rằng đồng môn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu còn theo lối tranh ăn,
Khác gì loài thú rừng săn giành mồi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Muốn cho thấy bóng chị Hằng,
680. Khá mau chơn bước khỏi hang tục trần.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Quấy rồi khá biết ăn năn,
Đừng cho quấy nữa mới rằng người ta.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thích Ca xưa cũng phàm nhơn,
688. Nhờ lòng cương quyết lánh trần mà nên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thật tu nếu chẳng siêu thăng,
Đây cam thế mạng muôn lần chẳng nao.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhiều khi đang lúc ngồi ăn,
696. Nhớ qua sự thế liền dừng đũa ngay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhớ lời của Phật Linh San,
Rằng con ơi chớ ngưng thoàn lúc nao.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Soi gương của Đức Quan Âm,
704. Nghe ai khổ nạn thì tầm cứu ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cắn hai hột muối chia bằng,
Tình huynh nghĩa đệ lòng hằng nhớ ghi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có thân thì phải thiệt thân,
712. Chớ đừng trước mặt sau lưng hai bề.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chuyện qua đã hỏng bao lần,
Nguyên do lớn nhất thiếu phần tín tâm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù là việc tục việc tăng,
720. Lòng tin chẳng có sự làm không nên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tình yêu nên rải khắp dân,
Khiến cho non nước xa gần ấm êm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu riêng vì một cá nhân,
728. Hại nhiều người khác khổ thân chớ làm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đừng quên nắm lấy giới răn,
Giới răn là cái địa bàn nhà tu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hãy mau uốn lúc còn măng,
736. Nên tre rồi khó thể làm cho ngay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rán tu cho phận siêu thăng,
Để đầy đủ sức cứu hồn mẹ cha.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nay đà đến lúc qui căn,
744. Con ai nấy dắt kịp tràng hội thi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mặc dù có nghiệp ma oan,
Biết qui theo Phật nghiệp lần lần tiêu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một hôm ta được nghe rằng,
752. Con ơi ma nghiệp đâu bằng Phật duyên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trong khi vừa mới tưởng xằng,
Trừ ngay chớ để đến làm lộ ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sớm chiều vái lạy bốn phang,
760. Tuy là mỏi gối nhưng an linh hồn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thọ ân nên biết đền ân,
Bốn ân trả được vẹn thân tu hiền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngồi lì theo lối hủ tăng,
768. Trái lời của Phật vạch đàng từ xưa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tu hành nên nhắm ngay dân,
Độ hồn siêu rỗi độ thân no lành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Biết khuyên kẻ khác ăn năn,
776. Chính mình cũng phải đạo hằng cho xong.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đời thường dễ nói khó làm,
Nói làm như một hết phàm ra Tiên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cũng đồng một loại không chân,
784. Rắn thì hung dữ còn trăn thì hiền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xin đừng đội lốt nhà tăng,
Gạt người mến Phật để làm lợi tư,
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chưa làm và chửa nói năng,
792. Trong lòng mới nghĩ Thánh Thần đã hay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dân còn thiếu hụt khó khăn,
Rán làm để giúp mặc ăn no lành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có tiền nên nhớ bố ban,
800. Chớ riêng hưởng lấy giàu sang một mình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu là việc nước việc dân,
Muốn làm viên mãn phải cần hợp nhau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bên tai còn nhớ nghe rằng,
808. Con ơi! Mối nhỏ đắúp thành ổ to.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Con người sẵn có bổn năng,
Muốn làm sẽ được chớ rằng sợ không.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trong lòng chớ vắng cân phân,
816. Đâu nên đâu chẳng phải cần hiểu ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Từ đây đến cuộc lở băng,
Khá trau đạo hạnh để ngăn thảm sầu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngòi binh lửa cứ ngắn dần,
824. Cháy ngoài bất tiện nó lần cháy trong.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Những lời đây nói có ngằn,
Hãy suy nghĩ kỹ chớ rằng cuồng ngôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mùa hè lại đốt pháo thăng,
832. Làm cho nhà cửa cháy lan ra nhiều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bây giờ mới biết cung trăng,
Ngàn xưa đã có người phăng tới rồi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Kiến trên miệng chậu bò quanh,
840. Tưởng xa nhưng chẳng khỏi vành chậu ô.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Uổng công mưu bất tử thân,
Hữu hình tất hoại định phần thế gian.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu không tạo nghiệp huyễn thân,
848. Thì không bị cái ngoại trần cuốn lôi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sắm thau thì bị sét ăn,
Sắm vàng tất chẳng rỉ răn chút nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khoảng không sau trước vẫn không,
856. Khỏi cần nói hoại nói không làm gì.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có thân khá liệu vẹn thân,
Đường về Cực Lạc rất gần chẳng xa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu không có cuộc quá giang,
864. Nhọc chi ta phải cầu thoàn réo kêu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thân ai nấy độ đành rằng,
Nhưng lòng bác ái ngó ngang sao đành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ví dù ta có bỏ thân,
872. Nhưng lòng yêu chúng vẫn còn luôn luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thầy còn chẳng quản tuổi măng,
Ta đâu đành hưởng cái xuân đương thời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bắc Nam chưa thuận một đàng,
880. Hảo hòa hai chữ phải càng kêu luôn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngày mai dù thế giới tan,
Hôm nay chớ để nhơn gian đói lòng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hiểu đời biến hoại sắp gần,
888. Càng lo giúp đỡ nhân dân nhiều bề.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngồi không phước chẳng hề tăng,
Phước không tăng được thiên đàng khó đi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ở trần lo giúp cho trần,
896. Lòng không tham đắm mới chân tu hiền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chúng sanh tức thị Phật Thần,
Giúp đời tất giúp đạo chơn được rồi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thật lòng thương xót thế gian
904. Quản chi bùn trịn đâu màng thúi khai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Buồn chi tiếng chó sủa trăng,
Việc chưa từng thấy lòng sanh nghi ngờ.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nước mềm càng đập càng văng,
912. Hung sùng không thể nào ăn được hiền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rốt đời các việc đều căng,
Bền tâm sẽ được công thành không sai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hố sâu lấp mãi sẽ bằng,
920. Dục tâm dù mấy cố dằn cũng qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trên không nghe tiếng nói rằng,
Con ơi! Đục núi làm đàng đi qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ước mong quê nội xa gần,
928. Lúc nào cũng được tinh thần dẻo dai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khó khăn cũng mặc khó khăn,
Việc làm cứ vẫn lo làm chớ ngơ.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Giặc ngoài còn dễ chống ngăn,
936. Giặc trong khó dẹp cho an tức thời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trời sanh có biển có giang,
Cũng sanh có gió đưa thoàn tới nơi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tuy là đang ở xa ngàn,
944. Chỉ trong giờ khắc đôi đàng gặp ngay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhớ nhau dù có muôn ngàn,
Cũng ôm bụng chịu chớ than trách nhiều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Giờ chưa thể gặp bằng thân,
952. Thì nên thay để tâm hồn gặp nhau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một hôm tiếng Phật khuyên rằng:
Con ơi! Hãy khá nén dằn lệ châu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tình yêu chúng tợ keo khằng,
960. Không như sương tuyết tiêu tan nhất thời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rán đi cho đến cuối đàng,
Đừng vì mỏi gối ném ngang giữa chừng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chèo ta chực mái nơi thoàn,
968. Dòng xuôi gió thuận thẳng đàng về Nam.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tạm thời xa cách đôi phang,
Để mưu vĩnh cửu cho đoàn Rồng Tiên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngày ta trở gót về Nam,
976. Là ngày vui vẻ hơn ngàn lần xưa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mặc cho ai có nói rằng,
Tình thương nhau vẫn nồng nàn tình thương.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mỗi đêm ta mỗi ra đàng,
984. Mặc chơn chơn bước, mặc lòng lòng lo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một hôm nghe Phật nói rằng:
Con ơi! Rán sống cho đoàn hậu lai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu không vì đạo thâm hoằng,
992. Chắc ta đã bỏ xác trần từ lâu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngàn xưa ta đã chuyển thân,
Vào ra trong cõi hồng trần lắm phen.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Không duyên với kẻ xa gần,
1000. Thì đâu gặp gỡ khu phần Việt Nam.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đã là có được duyên căn,
Há không gìn giữ nắm phăn đến cùng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chữ qui trong dạ nằng nằng,
1008. Không tu sớm được Phật đàng còn lu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Càng ngày văn vật càng tăng,
Tâm mê càng lắm đạo hằng càng lu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nên bày tiện cách mặc ăn,
1016. Không nên bày thứ dọa hăm loài người.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thuở xưa lắm lúc minh văn,
Văn minh sụp đổ dã man bắt đầu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sáu đường cứ mãi trôi lăn,
1024. Nhộng rồi ra bướm, bướm sanh ra tằm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hồng trần chỉ tạm thời gian,
Không bì được cõi Tây phang Phật đài.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cõi đời nếu chẳng tiêu tan,
1032. Phật Tiên không gọi thế gian tu hiền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chưa khôn còn tuổi trẻ măng,
Khôn rồi xác nọ sắp gần ra ma.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Càng xem thấy bóng tân văn,
1040. Càng lo thế cuộc không còn dài lâu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Còn chua chim chóc không ăn,
Chín rồi dơi chuột lại năng mó vào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mây đây khi thấy bủa giăng,
1048. Không ai nói cũng biết rằng sắp mưa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đừng cho đây nói chuyện xằng,
Rán suy xét kỹ để bàn cho ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta đành xa cách mẫu thân,
1056. Không vì danh lợi vì dân hoàn cầu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đã là mang lấy xác thân,
Há không tình cảm như phần số đông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ném đi tình cảm cá nhân,
1064. Để yêu thương khắp xa gần người ta.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:00 | |
| - hqnp3:
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trong tâm ta vẫn thưa rằng,
Mẹ ơi! đem trẻ cho ngàn muôn dân.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Riêng ta đau khổ chẳng than,
1072. Thấy người đau khổ xốn xang vô cùng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Vào khuya đêm nọ đầu năm,
Phật rằng con trẻ khéo tâm bi thiền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngàn muôn khăn khó lóc lăn,
1080. Nhờ lời không bóng ngày hằng gượng qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Những lời ta đã nói năng,
Nhờ ơn chư Phật dạy răn mới tường.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đừng đem ý hẹp nghi nan,
1088. Khá dùng trí rộng để bàn tột nơi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngày đêm ta vẫn vái van,
Xin Trời Phật khiến xóm làng nhứt tâm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ước mau hết cuộc qua phân,
1096. Để cho Nam Bắc tình thân một niềm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chớ tô màu sắc đỏ vàng,
Chỉ nên biết giống Hồng Bàng nhứt tông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dân đang thiếu mặc thiếu ăn,
1104. Lo đi chớ quá rộn ràng phái môn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Riêng mình chưa vẹn lấy thân,
Cũng nên ngượng miệng xin đừng nói ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta dù sao cũng đành cam,
1112. Nhưng không ưng chịu ai làm khổ ai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngày nào còn sự bất bằng,
Còn cần hợp sức để ban cho đều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bên tai thường được nghe rằng,
1120. Đổi đời nhơn loại sống bằng như nhau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Từ đây tới lập đời tân,
Không còn xa nữa chớ sờn chí tu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu không có cuộc tẩy trần,
1128. Làm sao hết được thứ dân yếu hèn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tảo tần ta chạy lăng xăng,
Cũng vì muốn chẳng có dân tiêu hồn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngoài đồng chuột nổi lên ăn,
1136. Lúa đâu cũng hết là cơn đại nàn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bò rừng phá rẫy nhà tăng,
Nếu tăng không giữ giới răn đúng điều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một khi có cuộc đá lăn,
1144. Nhà đâu cũng sập chớ rằng ở xa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lá đâu sâu cũng bò ăn,
Gạo không có lại lá cằn không ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Gặp ngày đại nạn Trời ban,
1152. Nước trong hóa máu uống ăn được nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tai Trời đành khó chống ngăn,
Họa người cũng chẳng dễ dàng ngừa qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cũng đừng quá tánh lố lăng,
1160. Càng treo đá nặng càng làm chìm mau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đối nhau càng lắm khó khăn,
Càng thâu hẹp lại con đàng mai sau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Biết tha thứ biết sống sanh,
1168. Khắt khe người há để mình yên thân.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bóng kia càng thổi càng tăng,
Càng phun mạnh sức nổ càng thêm mau .
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chữ thương cũng phải có ngằn,
1176. Thương không đúng cách thì càng hại to.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đạo không quanh ở bên tăng,
Mà là đạo ở nơi dân khắp trời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chấp nê khó thấy chơn quang,
1184. Phải ra khỏi cửa trời trăng mới tường.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Được tâm như khoảng không gian,
Đâu còn chỗ dựa để sanh thất tình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Niệm trong cái niệm không sanh,
1192. Phật nào lại chẳng gọi mình đến chơi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mặc ăn mà chẳng mặc ăn,
Lợi danh mà chẳng lợi danh chút nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhìn ngay tượng Phật trên bàn,
1200. Kêu ông hay có kêu thằng cũng thây.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Muốn tu cho được siêu thăng,
Trần ai nhứt vật chẳng năng để lòng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thân dù nặng mấy trăm cân,
1208. Hễ người biết lội thì thân nổi phình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lấy tâm hiểu lẽ trầm thăng,
Tại mình tất cả chớ rằng tại ai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Miệng kia nói được hung hăng,
1216. Tất là nói được hiền lành sao không.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Phải nên tự chủ lấy thân,
Chớ cho các việc ngoại trần khiến sai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Biết buồn khi yếu tinh thần,
1224. Tinh thần ấy sẽ lần lần mạnh lên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mỗi ngày mỗi xét sửa thân,
Hạnh dù xấu mấy cũng lần tốt ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mỗi khi đứng trước Phật bàn,
1232. Tưởng như có Phật chớ rằng không ai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù nơi chỉ có một thân,
Tưởng như giữa chợ người từng lại qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Việc chi hễ trước khi làm,
1240. Nhín đôi phút để xét phân chánh tà.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sáu căn đối với sáu trần,
Khiến lòng biến hóa muôn ngàn hình dung.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhiễm lâu muốn bỏ khó khăn,
1248. Nhưng trì chí sẽ lần lần bỏ xong.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngán ngao cái kiếp trần gian,
Tạo tành đủ thứ không an thứ nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Kiếp người đối cảnh thế gian,
1256. Người tiêu cảnh lại cũng tan theo thời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tu đi chớ nghĩ xiên xằng,
Chần chờ đến mất xác trần hết tu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Có hôm Phật bảo ta rằng:
1264. Con ơi! Mỗi phút xác thân mỗi mòn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cứ lo rờ rẫm châu trân,
Phía sau lửa cháy rần rần lại quên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tử thần chỉ nể Niết Bàn,
1272. Chớ không sợ kẻ thế gian chút nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Phật ngài đã chực sẵn thang,
Rán leo cho tới Niết Bàn bớ ai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rán tu xem được hội hàng,
1280. Tài cao phép lạ chói chang mắt trần.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trên Trời bỗng có lưới giăng,
Cứu người lương thiện khỏi đàng diều hâu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đến khi Trời đất tối tăm,
1288. Chơn tu nơi trán phóng lằn điển minh.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thảm cho những kẻ ác tăng,
Gặp khi núi nổ đá dằn nát xương.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhân nào quả nấy minh phân,
1296. Liệu cho khỏi cuộc tẩy trần tới đây.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một khi đã thấy xôi giàn,
Ấy là chầu hát tới màn thứ ba.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lúc nào ta cũng xốn xang,
1304. Thấy dân chưa lánh khỏi thoàn lủng be
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tối hôm nọ có lời rằng:
Con ơi! Cầu mục gánh vàng đi qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Còn chi chẳng sớm qui căn,
1312. Hồi đầu theo Phật cứu an xác hồn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đời chưa đến cuộc tiêu tan,
Ta đâu lo đến da còn bọc xương.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Muốn đời sớm biết hồi tâm,
1320. Từ trong não óc tố trần ra đây.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xin vui đọc lấy ngày hằng,
Giúp cho đây khỏi tủi lòng viết ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nói ra lấy lẽ công bằng,
1328. Chạm lòng xin chớ cho rằng xỏ xiên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đồng tâm khuya sớm vái rằng,
Gió đông sớm thổi cho thoàn rút neo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ý nguyền ví chẳng kết thành,
1336. Chết đi cũng nguyện tái sanh lại liền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hiền lành còn bị hung hăng,
Dòng châu còn chảy không ngăn được nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đạo chưa hưng khắp Bắc Nam,
1344. Những người thiện chí chớ cam ngồi nhìn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lòng nghe dân chúng luận bàn,
Phải hay là chẳng để toan cho hòa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đo lường cậy lấy xích thằng,
1352. Nhưng bề rộng hẹp do mình làm ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lấy kinh làm chỗ cứ căn,
Khi ra xử thế giảm tăng tùy mình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho có đủ khả năng,
1360. Cờ chưa đến nước phải đành nằm im.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nóng lòng chỉ một phút gian,
Việc nên trái lại đổi đàng ra hư.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rán tu cho mở trí năng,
1368. Để cho tai mắt khỏi lầm thấy nghe.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Tuồng đời đâu cũng rối nhăng,
Ngưng dùng võ lực đến bằng trí mưu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đáo đầu rồi cũng qui nguơn,
1376. Qua hồi vật chất đến cơn tinh thần.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Từ nơi sống hạ tinh thần,
Khéo tay dắt lấy đến từng siêu nhiên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ngàn đời cho đến muôn năm,
1384. Tinh thần Phật giáo không làm sao tiêu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lời lành của Phật dạy răn,
Được nghe rõ rệt ấy phần phước xưa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho ma khảo bao lần,
1392. Cũng đừng để mất tinh thần Phật nhi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ta đang trông đợi ngày hằng,
Đợi người trong đạo phá màn vô minh.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mắt to chỉ một bụi văng,
1400. Đủ làm khó chịu xốn xang khó nhìn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Bao nhiêu tâm trí diệu năng,
Do nơi vọng tưởng xiên xằng mà lu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trong khi đi đứng ngồi nằm,
1408. Đừng quên ngó lại nơi tâm của mình.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cho lòng hướng Phật Tây phang,
Hơn lòng hướng việc thế gian các điều.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hễ là nhớ Phật làm chơn,
1416. Chớ nên nhớ Phật mà trần cứ tham.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hoa kia nay đã búp măng,
Rán gìn đến nở chớ đừng làm khô.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thường ngày nhớ tám điều răn,
1424. Nhắm vào nơi đó ở ăn cho vừa.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lòng ta luôn ước mong rằng,
Kẻ làm cha mẹ biết cần dạy con.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chớ phân kẻ lạ người quen,
1432. Hễ là đồng đạo đua chen giúp giùm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Kết liên nhau lại mỗi làng,
Lo bề cày cấy đẻ ngăn đói nghèo.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Sống riêng là sống khó khăn,
1440. Sống chung là sống dễ dàng các phương.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Gái trai đang độ thanh xuân,
Dục tình mấy cũng lý luân rán gìn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trái tai muốn cự mà dằn,
1448. Nhịn qua rồi mới thấy rằng là hay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Quê người tiếng kệ kêu vang,
Ngược xuôi chiều uốn khác hơn quê nhà.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Quê nhà bất luận nữ nam,
1456. Ai người hiểu đạo khá đem khuyên đời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho có lắm tài năng,
Cũng đừng ngạo mạn hãy nên khiêm nhường.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Giữ gìn lời lẽ nói năng,
1464. Biện phân đâu cũng có ngằn dễ nghe.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù cho trưởng thượng cao tăng,
Đối ai cũng nhớ giữ phần lễ nghi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Người già mà biết nhượng năng,
1472. Trẻ xem vào đó học lần khiêm cung.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Mỗi người mỗi biết sửa sang,
Lần hồi Phật giáo bước đàng sẽ thông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đừng quên kẻ ở xa ngàn,
1480. Lòng mong lớn nhỏ xóm làng nôn tu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Lòng đây mong ước nằng nằng,
Quê nhà xin chớ phụ phàng lòng đây.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chớ rằng nắng hạn khô khan,
1488. Ngồi không chịu đói mùa màng bỏ trôi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khó làm mà cứ việc làm,
Nên rồi giá mắc mấy lần thường khi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Quản chi bụi cát trên đàng,
1496. Cứ đi chớ sợ chúng gàn cản chơn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dù ai có lắm cản ngăn,
Không làm ngoài được thì làm trong tâm.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Để gìn giữ chặt tình thân,
1504. Khá thường đi lại xa gần thăm nhau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khi mình đã có lỗi lầm,
Nghe người nói đến phải nhìn nhận ngay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dẹp lòng tự ái riêng thân,
1512. Để nghe lời của người phân học vào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhớ câu mật ngọt chết lằng,
Lời chi cũng phải dịu dàng dễ thương.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Đạo cho có hạnh chớ quên,
1520. Tỉnh cho thiệt tỉnh chớ nên lừng khừng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Hảo hòa tình ấy rán tăng,
Để cho ai thấy cũng rằng tốt thay.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nên hư vạn sự do nhân,
1528. Không nên phú hết cho phần hoàng thiên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Ý ta thường muốn nói rằng,
Cùng nhau hợp lực đổi phần thạnh suy.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Việc qua vì trái giới răn,
1536. Cho nên chịu lắm tóc tang âu sầu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Trùng dương hôm sớm một thân,
Nhớ qua chuyện cũ như dần ruột gan.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhiều khi nước mắt tuôn tràn,
1544. Vì thương nhớ đến hồn oan dân lành.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Từ đây mỗi việc chi làm,
Chớ vì tư lợi nỡ tâm hại người.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Làm người phải có lương tâm,
1552. Nếu không sánh loại rừng thâm khác nào.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Chớ nên sống lối tàng ngang,
Nên gìn nhân cách của hàng trượng phu.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rán tu cho mở nhãn quang,
1560. Để xem cách sống của hàng Thần Tiên.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nhìn đời ta bắt nghĩ rằng,
Dục tâm là chủ các tầng lớp dân.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Dục tâm dù có muôn ngằn,
1568. Cũng không ngoài kiếp dã tràng biển đông.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Nếu không có cõi chơn thân,
Ta đâu khuyên lánh tạm trần làm chi.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rán lo làm phước làm nhân,
1576. Khỏi thân ô trược đến từng cao thanh.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Phật Tiên đâu cũng đứng gần,
Người nên sẽ được hiện thân dắt liền.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thâm canh ta được nghe rằng:
1584. Con ơi! Phật ngó chằng chằng chúng sanh.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khắp nơi có Phật biết rằng,
Từ đây hãy rán tu hành cho siêng.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Học chi cái lối hung hăng,
1592. Chỉ làm người ghét đâu làm ai thương.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Cuộc đời vay trả lăng xăng,
Nay vầy mai khác dân quan đổi đời.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Một khi có cuộc biến loàn,
1600. Việc làm ngày trước người càng nhớ ra.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Rủi thay gặp buổi khó khăn,
Sự tu rất khó nhưng đừng bỏ qua.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Khó khăn nhưng vẹn đạo hằng,
1608. Tất Trời sẽ giúp cho thành công mau.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Xin đừng quên kẻ xa ngàn,
Tu hiền ôm chặt lòng vàng chớ phai.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Người nhà dù có phụ phàng,
1616. Riêng ta cứ nhớ nhớ càng nhiều hơn.
Hỡi quê nhà gần xa lớn nhỏ!
Kẻ Trời đông còn nhớ hay chăng?
Thương nhau mượn mực vài hàng,
1620. Gởi về thăm hết xóm làng gần xa.
Viết xong tại Đông Kinh
Thanh Sĩ.
(Ấn bản hiệu chính năm 2007)
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Đã chết mà sống August 15th 2020, 18:03 | |
| Đã chết mà sống - dcmsp1:
Các việc tục người tôi đã chết,
Chết hẳn từ lúc trước nữa kia;
Trên xác thân mọi việc trần mê,
Đã chết mất vào khuya đêm nọ.
Hiện bây giờ tôi còn nhớ rõ,
Vào một đêm trăng tỏ trời thanh;
Không bóng người nào đứng chung quanh,
Chỉ trơ trọi một thân thơ thẩn.
Bên cầu đá có chùa Tinh Tấn,
10. Đèn leo heo nhơn nhởn trước môn;
Chừng như là có sức chiêu hồn,
Tự nhiên kéo lần chơn bước đến.
Bên cửa tự có đèn một nến,
Trong sân chùa sao sến nhiều cây;
Mắt nhìn qua lòng nghĩ như vầy,
Trong chùa có Phật hay là chẳng.
Sự tưởng Phật nơi lòng có đặng,
Người mới đem cây đến trồng đây;
Kẻ hữu tâm cây cũng duyên thay,
20. Mắt càng ngắm càng say tâm não.
Cảnh thanh tịnh biểu dương tánh đạo,
Khác cảnh đời huyên náo tranh đua;
Ta ngẩng nhìn quanh khắp kiểng chùa,
Vào hay chẳng lòng chưa định quyết.
Nhìn phong cảnh nhìn chùa mải miết,
Tự thấy lòng mến tiếc dường bao;
Rồi tự nhiên chơn rón bước vào,
Một sư cụ đón chào lễ phép.
Ta cũng bắt cúi mình khép nép,
30. Rằng hôm nay chẳng biết tại sao;
Trong não đầu lại bắt nhói đau,
Nơi phòng nội ngồi lâu không được.
Mới ra ngoài chơn lần rảo bước,
Gió duyên đâu khéo hút vào đây;
Chớ tôi không phải ở xóm này,
Mà là ở cách đây mấy dặm.
Sư rằng: nếu thế là tốt lắm,
Nếu không duyên sao giẵm chốn này;
Xin mời ông tiện bước vào đây,
40. Trước lễ Phật sau vài câu chuyện.
Ta vâng lời bước vào Phật điện,
Lễ Phật xong rồi đến hậu đường;
Sư rằng: người ở chốn tha phương,
Đến đây viếng lệ thường rất ít .
Có lẽ ông sâu duyên Phật Thích,
Mới ngẫu nhiên lễ Phật chùa này;
Xin mời ông ngồi xuống nơi đây,
Liền đồng tử bưng khay nước đến.
Sư rằng: xin mời ông tự tiện,
50. Ta cám ơn cầm chén nước lên;
Sư cũng đồng nói tiếp theo liền,
Đạo nếu chẳng có duyên khó gặp.
Chùa nầy kể từ ngày thiết lập,
Người như ông mới gặp đầu tiên;
Giữa đêm hôm đến viếng chùa chiền,
Thật là một kỳ duyên hy hữu.
Xin mời ông đêm nay ở ngủ,
Để chuyện trò có đủ thời giờ;
Đây cũng là do ở Phật cơ,
60. Khéo xui khiến người như ông đến.
Tuy mới gặp nhưng lòng đã mến,
Người như ông cũng hiếm chùa nầy;
Lần đầu tiên mới đến nơi đây,
Nghe sư cụ quá lời khen tặng.
Ta thưa rằng: tôi không dám nhận,
Tôi như bao người đến viếng chùa;
Chỉ khác hơn không đến bữa trưa,
Mà lại đến đêm khuya vắng vẻ.
Bởi người tôi đang sầu lắm lẽ,
70. Khác nào như là kẻ điên cuồng;
Thường đêm thường tâm não ưu buồn,
Mất ăn cũng mất luôn cả ngủ.
Mỗi khi gặp phải cơn phong vũ,
Hoặc thấy nghe những sự bất lành;
Cõi lòng tôi như bị xé banh,
Đêm ấy suốt thâu canh không ngủ.
Nỗi thương nhớ xa gần ấp ủ,
Sự âu lo bao phủ tim gan;
Rồi tự nhiên nước mắt cứ tràn,
80. Không còn cách nào ngăn nén được.
Nếu nằm mãi gối chăn đều ướt,
Và trong lòng bứt rứt không an;
Nên thường hay rảo bước ra đàng,
Mượn phong cảnh để làm khuây khoả.
Suốt bao năm đều như thế cả,
Không ngày nào trong dạ thấy vui;
Vẻ mặt luôn ẩn nét bùi ngùi,
Cười cũng chỉ gượng cười lấy có.
Chính hôm nay cũng như thế đó,
90. Lòng băn khoăn chuyện nọ chuyện kia;
Quên cả Trời lạnh lẽo đêm khuya,
Cứ đi mãi đến kề am tự.
Thế tạo khéo nhiều trò thách thử,
Làm cho người Phật tử chua cay;
Trước khi tôi để bước vào đây,
Đứng lâu ở bên cây cầu đá.
Ngắm dòng nước thấy trong lòng dạ,
Chừng như là khuây khoả ít nhiều;
Nước chảy luôn bất kể rác rều,
100. Sớm cũng chảy mà chiều cũng chảy.
Khắp quả đất cùng trên thế giới,
Chậm hay mau đều chảy tới luôn;
Mặc cho đời có dạ ghét thương,
Không vì đó mà ngưng sức chảy.
Trong lòng cứ quanh đi quẩn lại,
Nước cùng ta có phải giống chăng?
Ngó nước xong nhìn cảnh chùa tăng,
Lòng như gợi muôn ngàn câu chuyện.
Chuyện mới cũ chuyện đời u hiển,
110. Rồi như ai kéo đến vào đây;
Thật tôi không có ý định nầy,
Ắt sẽ có gì hay đem lại.
Sư cụ rằng: chắc như thế ấy,
Nên xin ông ở lại đêm nay;
Để cùng tôi tâm sự vắn dài,
Nếu ông chẳng chấp đây già cả.
Ta liền thưa lời ông quá hạ,
Việc đạo đời già cả càng thâm;
Trẻ tuổi đâu khỏi lắm sự lầm,
120. Được ông chỉ lấy làm quí hóa.
Biết chừng đâu chuyện trong nhứt dạ,
Khéo gợi nên duyên cả thiên niên;
Vậy xin ông lượng việc tục tiên,
Dạy bảo kẻ đường duyên mỏng mẻo.
Ngoài Trời cũng lấy làm lạnh lẽo,
Nếu quá khuya xin ngủ nhờ đây;
Sư liền rằng: như thế là hay,
Rồi tự bước vào ngay sau hậu.
Mang bánh nước thêm ra rồi bảo,
130. Xin ông dùng lấy thảo với tôi;
Nhà chùa không giống ở nhà đời,
Chỉ bánh nước không mùi chi khác.
Ta rằng: cố nhiên chùa chay lạt,
Xin ông đừng thắc mắc làm chi;
Ông vui lòng hậu đãi thế thì,
Lòng tôi thiệt xiết chi cám đội.
Khách thập phương mỗi khi bước tới,
Các sư đều tiếp đối thế này;
Mùi thiền đâu cũng được thơm lây,
140. Tăng với tục cả hai được mến.
Sư rằng: ba mươi năm gần đến,
Tôi đem thân phụng hiến chùa nầy;
Sự lễ nhường bất luận với ai,
Cũng thế cả không hay phân biệt.
Vì lẽ chữ từ bi được biết,
Chỉ yêu thương không ghét một ai;
Lòng rộng hơn kẻ thế ở ngoài,
Cảnh chùa tất là thay cảnh Phật.
Tâm nhà tăng khác hơn kẻ tục,
150. Tăng thay chơn cho Phật ở đời;
Vì vậy nên đối với mọi người,
Nên thương hết chớ nơi nào ghét.
Phải tiêu biểu tinh thần siêu việt,
Mới là người học Phật làm tăng;
Tôi ở chùa chút mấy mươi năm,
Lúc nào cũng chủ tâm như thế.
Khách đến viếng nhiều không số kể,
Người như ông là kẻ khác xa;
Nên tôi quên đi phận tuổi già,
160. Muốn ông được luận qua nhiều việc.
Ta rằng: đạo tôi không mấy biết,
Nhưng lòng hay yêu việc thiện lương;
Tâm hồn luôn hướng cảnh Phật đường,
Vì tin Phật là chơn giác ngộ.
Lúc nào cũng muốn Ngài cứu độ,
Không những tôi mà cả thế gian;
Khổ đời nhiều dạ thấy không an,
Có lẽ Phật mười phang đã thấu.
Sư rằng: việc thế gian khó dấu,
170. Mắt Phật đà xem thấu khắp nơi;
Người sống trôi giữa biển khổ đời,
Lòng mong ước như người ông đấy.
Thật hiếm có và tôi ít thấy,
Phần đông thường lo lấy riêng thân;
Nghĩ cho mình là việc trước hơn,
Chớ ít có nghĩ luôn kẻ khác.
Cũng vì thế lắm người tạo ác,
Toàn là do dục đắc lợi tư;
Ta thưa rằng: thật đúng thế ư,
180. Cũng vì vậy loài người luôn khổ.
Sự khổ chẳng mấy ai muốn có,
Nhưng vô tình tạo nó không hay;
Cũng có người cố ý tạo gây,
Theo đuổi tánh sưa say dục vọng.
Trong đau khổ người cam chịu sống,
Vì là nuôi hy vọng tương lai;
Vì sống vì ham muốn nọ nầy,
Nhiều người dám liều thây bất kể.
Mỗi người mỗi muốn ham một lẽ,
190. Khổ khác nhau khó kể sau cùng;
Dù cho là mấy bậc anh hùng,
Cũng khó thắng được lòng ham muốn.
Ai cũng bị khổ làm rối cuốn,
Không người nào sung sướng tự do;
Càng giàu sang càng địa vị to,
Trong lòng lại càng lo càng khổ.
Vì ích kỷ mà lo không hở,
Ấy tánh chung của kẻ thế gian;
Tánh nầy chừng nào được tiêu tan,
200. Loài người mới bình an vô sự.
Không giặc giã không người hung dữ,
Cũng không ai ích kỷ tổn nhơn;
Mong cửa thiền rộng mở xa gần,
Giúp thiên hạ đồng tâm cải thiện.
Dù tiến bộ được bao nhiêu chuyện,
Loài người không cải thiện như nhau;
Tiến bộ kia cũng vẫn khổ đau,
Chỉ phương tiện hại nhau vô ích.
Sự tiến bộ tôi không công kích,
210. Chỉ luận nghe chỗ ích chỗ không.
Nhìn kim thời như thể pháo bông,
Tôi càng thấy trong lòng bứt rứt;
Những nỗi của tôi đang buồn bực,
Ba phần tư do cuộc thế dân.
Còn một phần vì chữ hiếu thân,
Đi đâu cũng nhớ luôn không ngớt;
Ngày nào nhơn loại cùng sang sớt,
Chừng ấy tôi mới bớt nỗi buồn.
Chính tôi như là kẻ đang cuồng,
220. Cuồng đạo đức cuồng luôn thế sự;
Đời mỗi bữa mỗi thêm câu nhử,
Khiến lòng người thêm bị nhớp nhơ.
Cứ chạy đua theo cái thời cơ,
Lòng người rối dường tơ muôn mối;
Chốn tửu sắc bất phân sớm tối,
Ngày chí đêm tiếp nối truy hoan.
Cạnh tranh nhau sống mới sống sang,
Loài người vẫn mưu toan đủ cách;
Mưu toan ấy ít khi trong sạch,
230. Hầu hết đều nhơ nhớp dã man.
Sự bán buôn đến việc dân quan,
Toàn giả dối như ban hát bộ;
Xấu xa mấy cũng thây không hổ,
Tội lỗi bao vẫn kể như không.
Trên đường đời số ấy rất đông,
Chúng dễ cám được lòng kẻ yếu;
Việc xấu tốt có người cũng hiểu,
Theo phần đông đành chịu xấu luôn.
Lành một người còn dữ cả muôn,
240. Lành ấy khó gìn luôn đến cuối;
Có lẽ ở chín tầng mây nổi,
Đức Ngọc Hoàng không khỏi đắn đo.
Phàm như tôi còn quá ưu lo,
Huống Thượng Đế sao cho khỏi thảm;
Loài người càng ngày hơn gấu hạm,
Gặp bắt ăn chớ chẳng luận suy.
Có đủ đồ giết hại kinh nguy,
Để phụng sự cư y ẩm thực;
Nói tới đây ta liền nhớ sực,
250. Để hỏi sư đạo đức thế nào.
Một mình ta cứ nói thao thao,
Thật là quấy làm sao đấy nhỉ;
Có thể gọi người cuồng đạo lý.
Đi đến đâu cũng chỉ thế thôi,
Nghĩ vậy rồi ta mới cất lời;
Thưa sư những việc tôi vừa luận,
Đúng hay chăng nhờ sư chỉ dẫn.
Sư rằng: lòng bi mẫn của ông,
Thật là người đáng nối Phật tông;
260. Lời rất đúng chứ không sai chạy,
Tâm hồn ông bủa đầy nội ngoại.
Dựa vào tình nhơn loại nói ra,
Rất hợp lời dạy của Thích Ca;
Ai nghe cũng phải là nhìn nhận,
Chỉ những kẻ ý tình thiển cận.
Chẳng nghe theo lại giận không chừng,
Lấy tinh thần phổ độ chúng dân;
Nhận hay chẳng đâu cần ông nhỉ.
Ta thưa rằng lời sư hữu lý,
270. Chính lòng tôi đã nghĩ thế ư;
Vạch rõ ra các việc nên hư,
Nghe hay chẳng tùy người liệu lượng.
Không phiền trách chỉ là mong tưởng,
Khắp người đồng qui hướng một đường;
Dù Đông Tây Nam Bắc chư phương,
Cùng siết chặt niềm thương nhau cả.
Chẳng phân biệt kẻ quen người lạ,
Chỉ xem nhau tất cả là người;
Đối đãi nhau một cách tốt tươi,
280. Giúp nhau sống cuộc đời no ấm.
Tránh chửi mắng tránh điều đá đấm,
Càng không nên mưu ngấm hại nhau;
Bất luận là ở một việc nào,
Lấy tình thật đối nhau làm trước.
Điều này nếu loài người có được,
Chắc không ai sống cuộc đói nghèo;
Dù dân trong rừng bụi núi đèo,
Cũng mở mặt như nhau tất cả.
Như thế mới là chơn tiến hóa,
290. Cũng gọi rằng triệt để văn minh;
Sư rằng: tôi rất biểu đồng tình,
Chính tôi cũng đinh ninh như thê.
Tâm hồn ông nghĩ suy đáo để,
Thật là không hổ kẻ sống đời;
Trong thân người có được lòng người,
Ấy đâu phải mỗi ai cũng có.
Tôi còn nhớ khi tôi lúc nhỏ,
Con của nhà hào phú một vùng;
Được mẹ cha cưng dưỡng túng dung,
300. Tôi như thể là ông hoàng tử.
Sẵn xe cộ sẵn nhà to bự,
Sẵn của tiền tích trữ dư muôn;
Tôi khác nào buồm gặp gió luồng,
Muốn lấy được bất cần suy nghĩ.
Đi học chỉ đến trường lấy vị,
Chớ không cần để ý học hành;
Trông hết giờ lo việc yến anh,
Tụ bè bạn lộng hành đủ việc.
Tuôn tiền bạc ra không biết tiếc,
310. Chơi đủ điều không việc nào chừa;
Những việc nào trong bụng thích ưa,
Tội lỗi mấy cũng lo cho được,
Đối bạn tác đầy như bát nước.
Nhưng bị bao nhiêu lượt gạt lừa,
Chận lời ông, ta lại liền thưa;
Xin ông kể lại cho ít việc,
Sư rằng: nếu như ông muốn biết.
Thì tôi đâu có tiếc điều gì,
Đời của tôi gặp lắm ai bi;
320. Dù đã chẳng thiếu chi tiền bạc,
Một việc gạt trong muôn sự gạt.
Tôi bị người bạn tác rất thân,
Gạt lừa tôi đau đớn không ngần;
Từ nhỏ lớn chưa từng nghe đến,
Người bạn ấy lòng tôi rất mến.
Từ nhà trường cho đến ra ngoài,
Mọi việc đều đâu cật kề vai;
Đi đâu cũng dắt tay nhau cả,
Vui khổ thảy đều trao đổi dạ.
330. Gần gũi nhau thường cả ngày đêm,
Muốn có tiền tôi giúp cho tiền;
Cho đến việc tình duyên cũng thế,
Lòng thương bạn hơn là huynh đệ.
Xử tốt nhau bất kể việc gì,
Thường gặp nhiều trường hợp hiểm nguy;
Tôi vì bạn quên đi mạng sống,
Được cha mẹ cưng như trứng mỏng.
Nhiều khi tôi liều lĩnh bất cần,
Ít nghe lời khuyên của song thân;
340. Thường nghe những lời phân của bạn,
Thói thường ấy hết còn bất mãn.
Ngược lại lòng người bạn chưa vừa,
Còn muốn thêm lắm chuyện thích ưa;
Nhân vào một buổi trưa hôm nọ,
Bạn gọi tôi kề tai nói nhỏ.
Làng gần đây mới có một nàng,
Tuổi còn măng vừa đẹp vừa ngoan;
Đêm nay có thể sang chơi nhỉ,
Tánh hiếu sắc tôi không cần nghĩ.
350. Liền bằng lòng rằng sẽ đi ngay,
Vậy tám giờ tối ở đêm nay;
Chúng ta sẽ cùng đi một lượt,
Bạn lại bảo rằng không thể được.
Tôi phải cần đi trước dọn đường,
Sau rồi anh sẽ đến tiện hơn;
Có tôi sẵn chờ anh tại đó,
Từ lâu rồi việc này thường có,
Cho nên lòng tôi chả nghi ngờ;
Bảo bạn nên đi trước thăm dò.
360. Tám giờ đúng tôi thò mặt đến,
Cho rằng dịp neo mà gặp bến.
Tôi đi theo giờ hẹn không ly,
Nửa chừng đường trong lúc đang đi;
Có một tốp ra vây phủ chặt,
Bắt lấy tôi đánh gần mù mắt;
Lại lấy luôn hết bạc trong mình,
Còn bảo rằng muốn được tồn sinh,
Mai này phải mang thêm mười vạn.
Nếu chẳng có thì là mất mạng,
370. Nghe thế tôi càng hoảng thêm lên;
Tôi trở về lén lấy đủ tiền,
Tối đêm kế liền mang đến nạp.
Thân đã bị đánh thoi bầm dập,
Không dám thưa còn nạp thêm tiền;
Lúc ấy lòng tôi oán chung thiên,
Nếu giết được giết liền mới hả.
Sau mấy tháng chưa nguôi trong dạ,
Cứ nghĩ rằng sao trả được thù;
Tốn bạc tiền chẳng ức chi đâu,
380. Bị đánh chửi tôi đau hơn hết.
Từ ngày ấy tôi ngơ các việc,
Chỉ đắn đo mải miết sự này;
Lòng căm hờn không thể nào khuây,
Tôi đi đó đi đây suốt buổi.
Một hôm nọ cũng trời giong ruổi,
Để cho tôi giải mối oan tình;
Trong khi tôi đang bước thình lình,
Chợt gặp một bạn quen từ trước.
Chào hỏi xong cùng đi uống nước,
390. Một tiệm gần phía trước đàng đi;
Ở nơi đây thêm một chuyện kỳ,
Cô bưng nước thường khi quen mặt.
Cô làm ở tiệm xa chỗ khác,
Sang tiệm này mới ít hôm đây;
Khi thấy tôi cô lại sựng mày,
Chào xong muốn nói ngay chi đó;
Nhưng cô lại nín đi không tỏ,
Như có vẻ nghĩ chi khăn khó.
Lúc tôi còn ngồi đó uống trà,
400. Cũng độ chừng gần một giờ qua;
Tự nhiên thấy cô ta bước đến,
Hỏi rằng bạn của ông thường mến.
Sao lại không thấy đến hôm nay,
Tôi trả lời rằng suốt mấy ngày;
Tôi chẳng gặp mặt mày của ảnh,
Có lẽ tại vì anh không rảnh.
Thành thử không thấy đến thăm tôi,
Cô lắc đầu và lại trề môi;
Rằng ông có tin tôi chăng nhỉ?
410. Có một việc rất là kín bí.
Tôi muốn đem tỏ lại cùng ông,
Nếu chẳng tin ắt sẽ chạm lòng;
Vì hệ đến bạn ông chí thích,
Tôi rằng có chi đâu mà mích.
Việc chi xin nói thật ra nghe,
Xin cô đừng có quá dặt dè;
Vui lòng nói ra nghe cho biết,
Cô rằng chính đây là sự thiệt.
Tôi đã nghe tận mắt tận tai,
420. Ôm lòng chờ đợi mấy tháng nay;
Nhưng không thấy ông lai vãng tới,
Việc ông bị đánh thoi dữ dội.
Do bạn ông dẫn lối đấy thôi,
Vì cần tiền cho một gái chơi;
Nên mới xúi giục người côn đảng,
Gạt rằng có gái tơ ngoan ngoãn.
Để chặn ông khoảng vắng cướp tiền,
Bảo rằng ông hiện có muôn thiên;
Nên dọa để lấy thêm nhiều nữa,
430. Hồi tiệm trước nhờ tôi thường bữa.
Hay đứng gần bệ cửa hầu chờ,
Bạn ông cùng với lũ côn đồ;
Thình lình lại bước vô ngồi kế.
Họ nói nhỏ nhưng tai tôi để,
Vì thế nên mọi lẽ được nghe;
Nhưng bạn ông ông vẫn thường khoe,
Rằng thương mến hơn là ruột thịt.
Nên tôi vẫn tưởng rằng thân thích,
Không thể làm chuyện mích ấy ra;
Chỉ nói đùa để có cười xoà,
440. Ai đâu nỡ gà nhà bôi mặt.
Chừng tôi nghe xảy ra sự thật,
Tôi ngẩn ngơ và bắt giận tôi;
Chớ chi khi nghe chuyện ấy rồi,
Đem nói hết mọi lời ông hiểu.
Nạn tai ấy tất không vướng víu,
Lỗi này tôi cũng chịu một phần;
Không đồng mưu nhưng cũng phạm nhơn,
Lòng tôi cứ băn khoăn mãi mãi.
450. Ông người tốt và lòng rộng rãi,
Đối bạn bè tiếp đãi ân cần;
Lại bị người bạn rất chí thân,
Hại ông kể còn hơn thù địch.
Tôi càng thấy lòng như châm chích,
Chờ gặp ông tỏ hết ra nghe;
Để cho ông biết có dặt dè,
Chớ tin lắm sẽ e khổ nữa.
Nghe đến đây đầu tôi như bửa,
Tức giận không còn có chi bằng,
460. Với người nào khác có thể dằn;
Còn với bạn đồng chăn đồng gối.
Nay lại nở nhẫn tâm phản bội,
Không thể nào tha tội được đâu;
Càng nhớ càng như lửa thêm dầu,
Liền về ngửa nằm lâu suy nghĩ.
Một là bắt tấn tra cho phỉ,
Hai là làm nhục sỉ mới vừa;
Ba mướn người bắt trói xẻ cưa,
Để trả lại thù xưa bị đánh.
470. Lòng căm hận càng sôi sục mạnh,
Nghĩ tới lui không rảnh trong đầu;
Tức bạn bè chơi đã từ lâu,
Tiền bạc tốn biết bao nhiêu kể.
Lại cũng bỏ cả bề danh thể,
Lời mẹ cha cũng để ngoài tai;
Đối bạn bè như bát nước đầy,
Ân chẳng trả lại xoay trả oán.
Tôi càng nghĩ lòng càng chán ngán,
Hạng người này để sống làm gì;
480. Mướn hung đồ giết phức nó đi,
Tôi nghĩ thế đến khi mê ngủ.
Liền trong giấc chiêm bao phất phủ,
Thấy một bà đội mũ Quan Âm;
Vẻ trang nghiêm khác kẻ tục phàm,
Từ ở phía trời Nam bay tới.
Hiện trước mặt tôi và liền nói,
Mừng cho người xong mối nợ xưa;
Người bạn mà ngươi rất mến ưa,
Ngươi đã có nợ xưa với nó.
490. Thuở xưa có tên Hoàn tên Võ,
Cùng đồng thời sanh có một niên;
Võ là con một vị ngự tiền,
Vừa giàu có vừa quyền thế lớn.
Hoàn con của một nhà nghèo khốn,
Nhưng Trời sanh tánh vốn thông minh;
Ở nhà trường học giỏi có danh,
Còn tên Võ tánh tình ngu xuẩn.
Được nhờ Hoàn nhiều lần chỉ dẫn,
Cả hai người kết bạn với nhau;
500. Càng ngày càng khắng khít thâm giao,
Việc giai cấp nghèo giàu quên cả.
Cha của Võ rất không ưa dạ,
Rầy Võ sao chơi kẻ nghèo nàn;
Không tìm người thế lực giàu sang,
Để kết bạn cho ngang giá phẩm.
Võ bất kể lời cha rầy mắng,
Chơi với Hoàn ngày mặn thêm hơn;
Hoàn muốn chi Võ cũng chìu luôn,
Dù là việc ngàn muôn khăn khó.
510. Coi tiền bạc rẻ như rác cỏ,
Lòng thương Hoàn hơn vợ con yêu;
Hoàn nói chi đều cũng nghe theo,
Đối Hoàn chẳng một điều nào mích.
Võ thường bị bạn giàu châm chích,
Vì Võ chơi quá thích với Hoàn;
Ai nói chi Võ cũng chẳng màng,
Lòng Võ mến thương Hoàn tột bực.
Bị sàm tấu bị ganh thế lực,
Cha Võ đành mất chức hồi hưu;
520. Ngày đêm vì hổ nhục sầu ưu,
Sanh bịnh chẳng bao lâu kế chết.
Từ đó cả gia tài tiêu hết,
Võ trở nên thất nghiệp bơ vơ;
Lúc bấy giờ Hoàn gặp hội cơ,
Đỗ quan trạng được vua gọi tới.
Làm một vị đại thần cận giới,
Vua lại đem con gái gả cho;
Hoàn bấy giờ chức lớn giàu to,
Trái lại Võ nghèo xơ nghèo xác.
530. Từ cha Võ bịnh sanh kế thác,
Võ phải về chầu chực tóc tang;
Nên mấy năm đã cách xa Hoàn,
Chịu nghèo khổ lang thang vất vả.
Nghe tin Hoàn được làm quan cả,
Võ rất mừng vội vã đến thăm;
Võ băng rừng vượt núi suốt năm,
Mới tới chỗ của Hoàn trấn ngự.
Hoàn chẳng nhìn nhận là bạn cũ,
Lại còn cho là thứ ăn mày;
540. Bảo lính hầu kéo đánh nát thây,
Thêm chửi bới nhiếc xài thậm tệ.
Mặc dù Võ nhiều lời khóc kể,
Xin Hoàn nên nghĩ nhớ bạn xưa;
Càng nói càng bị lính đánh bừa,
Hoàn bảo lính đuổi xô khỏi cửa.
Võ tức giận đến tuôn máu mửa,
Thệ lớn rằng chờ thuở trả thù;
Chưa trả xong lòng chẳng nguôi đâu,
Dù cho phải chịu đầu thai mãi.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:05 | |
| - dcmsp2:
550. Trong vũ trụ bất kỳ thế giới,
Hoàn sanh đâu Võ lại sanh theo;
Từ trước giờ cứ thế như keo,
Nhưng chưa gặp dịp nào để trả.
Nay người sắp đến ngày xả quả,
Nên nghiệp xưa phải trả khôn dời;
Tên Hoàn kia vốn thiệt là ngươi,
Còn tên Võ là người bạn ấy.
Nay ngươi giận nó làm việc quấy,
Định mướn người giết hại nó đi;
560. Thì nghiệp xưa kia vẫn còn y,
Nó sẽ đợi thời kỳ báo nữa.
Lửa đang cháy đem dầu để chữa,
Càng cháy thêm lên chớ tắt đâu;
Vậy khuyên ngươi bỏ ý trả thù,
Để dứt nợ từ lâu đã thiếu.
Tiền nghiệp ấy khi người được hiểu,
Nóng giận bao cũng dịu lại ngay;
Cõi thế gian là kiếp trả vay,
Ngươi nên biết từ đây khá tránh.
570. Bà nói xong rồi quay lại mạnh,
Theo hào quang chói ánh bay đi;
Tôi giựt mình thức dậy nghĩ suy,
Cho rằng giấc mộng kỳ bí thật.
Tôi vốn là con người duy vật,
Nhỏ lớn chưa hề biết chiêm bao;
Gặp chuyện này quái lạ làm sao,
Khiến tôi bắt ôm đầu nghĩ mãi.
Suốt mấy bữa xét đi xét lại,
Đến cuối cùng tôi thấy nên tin;
580. Vì nếu không có nghiệp của mình,
Thì chẳng có mộng linh nầy đấy.
Tôi bỏ hẳn tấm lòng giết hại,
Rồi liền kêu bạn lại nói ngay;
Nếu chẳng nhờ có giấc mộng này,
Tôi sẽ giết anh ngay chẳng để.
Bạn nghe rõ những lời tôi kể,
Mặt xám lên tỏ vẻ ăn năn;
Liền xin tôi mở lượng hồng khoan,
Thệ đến chết chẳng làm thói ấy.
590. Kể từ đó bạn tôi sửa cải,
Trở nên người tốt mấy hơn xưa;
Tôi lại càng thêm sự thích ưa,
Quên tất cả chuyện xưa lầm lỗi.
Nhưng ông ôi đời không biết nổi,
Họa nầy qua kế tới họa kia;
Đời của tôi còn lắm nữa kìa,
Đâu một việc kể ra sao hết.
Nghe sư kể đoạn đời bi thiết,
Được mộng lành mách nghiệp oan xưa;
600. Khiến lòng ta lại bắt thêm ưa,
Cho rằng cũng là cơ duyên đấy.
Bầu trời rộng nơi nào cũng vậy,
Phật không quên tìm dạy con duyên;
Sư cụ con nhà của quý quyền,
Ly gia hẳn nhiều nguyên nhân lắm
Ta nín lặng một hồi suy gẫm,
Rồi mở lời chầm chậm thưa rằng;
Sự tu hành cũng có duyên căn,
Nhiều khi muốn mà làm không được.
610. Có lắm kẻ do duyên thuở trước,
Hoặc là người chưởng phước lâu xa;
Tự nhiên tu không đợi nhắc ra,
Hoặc được nhắc đến là hối ngộ.
Như sư đã vào đường Tịnh độ,
Tôi nghĩ rằng nhờ có duyên sâu;
Mới xa lìa được cảnh sang giàu,
Ở chùa miễu sòng nâu khổ hạnh.
Sư rằng cũng do nơi hoàn cảnh,
Xô đẩy tôi bước đến cảnh thiền;
620. Thật là không phải sự tự nhiên,
Đời tôi viết nên thiên kỳ sử.
Ta đưa mắt nhìn nơi sư cụ,
Hiểu ít nhiều tâm sự đời sư;
So lại mình nhiều chỗ tương như,
Muốn hầu chuyện với sư thêm nữa.
Ta thưa ngay không còn lần lựa,
Rằng kể ra cũng có duyên gì;
Mới lôi chơn đến cửa từ bi,
Quên trời lạnh quên khi khuya khoắc.
630. Nghe đời của sư bày vắn tắt,
Khiến cho tôi cũng bắt ngẩn người;
Nghiệp này không riêng của sư thôi,
Mà còn có nhiều người như thế.
Nhưng việc thiện xưa không chứa để,
Mộng lành đâu mấy kẻ thấy ra;
Việc nên tha mà chẳng biết tha,
Nợ chẳng trả tạo ra thêm nợ.
Bởi không biết nên lòng không sợ,
Nghĩ ra đâu khác kẻ đui mù;
640. Việc bí kỳ đối với nhà sư,
Theo tôi nghĩ còn nhiều chẳng ít.
Xin sư lấy một vài bi kịch,
Kể thêm nghe tôi rất cám ơn;
Sư rằng tôi đâu có ngại ngần,
Kể nhiều sợ làm ông chán ngán.
Đời tôi còn biết bao nhiêu đoạn,
Đoạn vừa qua là bạn phản tôi;
Nhưng cũng chưa đáng mấy ông ôi,
Đoạn kế mới tày trời hơn nữa.
650. Cũng vào lúc tuổi xuân đang thuở,
Bạn lừa tôi sau đó ít lâu;
Tật chơi bời vì đã ăn sâu,
Chỗ tửu điếm nơi đâu cũng tới.
Một hôm nọ ở nơi dạ hội,
Được gặp người con gái rất xinh;
Trông thấy tôi cô lại liếc tình,
Tôi gọi đến ngồi gần bên cạnh.
Tình có rượu khiến tình thêm mạnh,
Nghe đờn ca thêm tánh bướm ong;
660. Thói đã quen ưa khách má hồng,
Gặp gái đẹp khiến lòng thêm mết.
Lời tình tứ bao nhiêu tuôn hết,
Toàn những câu tha thiết yêu đương;
Lối gió trăng cô cũng chẳng nhường,
Lời luận biện mọi đường thông thái.
Kể từ đó tôi thường đi lại,
Cả hai đàng đều thấy thích nhau,
Rốt cuộc cùng mở động nguyên đào;
Mối tình ái giữa nhau càng siết,
670. Tôi đặt sự yêu cô trên hết.
Lúc ấy tôi như điếc như mù;
Chỉ biết cô chẳng biết ai đâu,
Không cô sẽ hoàn cầu không có;
Yêu đến đỗi cửa nhà đều bỏ,
Ở bên cô suốt cả ngày đêm.
Tạo một bầu không khí ấm êm,
Lòng tôi biết bao niềm sung sướng;
Trong lúc ấy lòng tôi những tưởng,
Như thế là được hưởng lâu dài.
680. Cô muốn chi tôi cũng chìu ngay,
Tiền bạc dẫu muốn xài đến mấy;
Hơn một năm cứ như thế ấy,
Có một hôm cô lại bảo rằng.
Hãy cùng nhau mở cuộc lữ hành,
Đổi không khí cho thêm sức khỏe;
Còn nhiều chỗ rất nên đẹp đẽ,
Đáng cho người còn trẻ xem qua.
Chúng ta đâu phải hạng tuổi già,
Mà ngồi mãi trong nhà cho uổng;
690. Hương vị của thiên nhiên nên hưởng,
Để già rồi muốn thưởng không vui.
Còn ngoạn du muốn biết đủ mùi,
Các chỗ phải dạo chơi chẫm rãi;
Nhưng cốt yếu số tiền trong đãy,
Cần đem theo nhiều mới yên tâm.
Thói thường nghe lời của cô phân,
Dù ai cũng nhận nhìn là phải;
Vì thế nên tôi không hề cãi,
Liền về nhà mở lấy tiền theo.
700. Cố nhiên là đem một số nhiều,
Để vững bụng đúng theo cô muốn;
Trong lúc lòng tôi đang sung sướng,
Được cùng cô đi thưởng cảnh xa.
Trời có trăng đêm ấy sáng lòa,
Tàu trong lúc chạy qua eo biển;
Trời mát mẻ thêm quang nguyệt điện,
Khêu gợi lòng anh yến chi bằng.
Dù cho ai không muốn xem trăng,
Cảnh nầy cũng không dằn sao được;
710. Tôi chưa bảo cô liền mời trước,
Ra bệ tàu hóng mát xem trăng.
Có phải là thú vị hơn chăng,
Ngồi mãi ở trong phòng khó chịu;
Lời cô bảo trúng ngay chỗ yếu,
Tôi bằng lòng liền níu lấy tay.
Dắt nhau lần rảo bước ra ngoài,
Vừa đi lại vừa lời to nhỏ;
Rồi cùng dựa lan can đứng ngó.
Cảnh êm đềm còn có chi hơn,
720. Chị Hằng xem cũng bắt ghen hờn;
Cho rằng cặp tình nhân quá khích,
Tiếng máy tàu chạy nghe thình thịch.
Pha lẫn lời yêu thích gái trai,
Nung nấu lòng thêm nỗi mê say;
Bao nhiêu chuyện ở ngoài quên hết,
Nhưng than ôi! Lòng người khó biết.
Trong lúc tôi đang siết tay cô,
Nơi lòng không còn chỗ nghi ngờ;
Thình lình bị cô xô xuống nước,
730. Giờ phút ấy mọi người an giấc.
Cố nhiên không ai biết hay chi,
Tưởng thân tôi bị cá nuốt đi;
May nhờ có thuyền câu cứu vớt,
Khi tỉnh lại sau hồi chết ngộp.
Vừa tức vừa nước mắt tràn trề,
Tự trách mình sao quá si mê;
Bị ác phụ đánh lừa không biết.
Nghe đến tiếng yêu đương tha thiết,
Liền tin theo không xét mới lầm;
740. Nếu không nhờ ngư lão từ tâm,
Thân nầy đã tự trầm đáy biển.
Tự trách tôi ấy là một chuyện,
Giận cô kia tán tận lương tâm;
Đã cùng nhau chung gối ăn nằm,
Muốn chi cũng chiều làm theo cả.
Tiền bạc đổ ra như nước lã,
Lời ái ân cũng đã chứa chan;
Nay lại đành đem dạ sói lang,
Giết mình cách xô thân xuống biển.
750. Hơn năm trời luống nuôi ong kiến,
Lòng tôi càng nghĩ đến thêm hờn;
Từ đó cho đến bốn tháng hơn,
Tôi như kẻ mất hồn thơ thẩn.
Mỗi ngày mỗi đó đây vơ vẩn,
Mượn rượu làm cơn giận nguôi đi;
Ngày nào như ngày nấy li bì,
Quên nhà cửa quên đi tất cả.
Tôi lúc ấy chính trong lòng dạ,
Chẳng còn tin nhân quả là chi;
760. Cho đời mình còn có ra gì,
Ở tốt mãi chuyện nguy cứ gặp.
Trong khi đó tôi mong trời sập,
Để chết tôi chết hết loài người;
Trong lòng không còn muốn sống đời,
Chán đến đỗi thấy người đều ghét.
Tha hồ uống rượu chè be bét,
Gây gỗ luôn không biết từ ai;
Bỗng một hôm trong lúc rượu say,
Tôi lại bước vào ngay một tiệm.
770. Đó cũng chính là nơi tửu điếm,
Gặp một cô trang điểm rất xinh;
Nhìn kỹ ra tôi bắt hoảng kinh,
Chính là kẻ xô mình trước đấy.
Tức thời tôi liền kêu cô lại,
Cô giả vờ ra kẻ không quen;
Và chính cô cũng đổi khác tên,
Bảo rằng chẳng hề quen tôi cả.
Nghe cô nói lòng tôi giận quá,
Bảo rằng cô là kẻ sát nhân;
780. Gần gũi nhau đã một năm hơn,
Nay lại bảo không quen biết tới.
Tội giết người muốn cho được khỏi,
Nên dùng lời nói dối phải chăng?
Lúc ấy cô lại nói lớn rằng:
Tôi say rượu nhìn lầm nói bậy.
Cô vào trong kêu người khác lại,
Kéo tay tôi bảo phải đi ngay;
Nhược bằng còn ngồi nói dông dài,
Sẽ kêu lính bắt ngay tức khắc.
790. Không chứng cớ chi đem làm chắc,
Tôi đành cam chịu nhục đi ra;
Từ đó đi về đến tới nhà,
Tôi oán giận kể ra sao hết.
Bị xô xuống biển sâu gần chết,
Nay lại còn bị nhiếc xài thêm;
Câu chuyện nầy quyết chẳng để êm,
Làm sao rửa được hiềm mới chịu.
Quá suy nghĩ đầu tôi nặng trịu,
Suốt mấy ngày ăn ngủ không yên;
800. Con người tôi dường thể như điên,
Nỗi giận tức càng lên cực độ.
Cuối cùng tôi lấy con dao nhỏ,
Quyết đêm khuya chận ngõ cô về;
Giết phứt đi dạ mới hả hê,
Thứ bất nghĩa sống chi vô ích.
Vừa nghĩ thế thấy trong người mệt,
Nằm lăn ra ngủ mất hồi nào;
Hiện thấy ra một cảnh chiêm bao,
Cũng bà lão thấy lâu rồi đó.
810. Nương hào quang bà sang nói rõ,
Ớ này người tuổi trẻ kia ơi!
Đó cũng là nghiệp báo lâu đời,
Hãy vui trả cho rồi chớ hận.
Cách khoảng đây cũng lâu xa lắm,
Có vợ chồng tên Phấn tên Nga;
Nga mặt mày có chút xấu xa,
Nhưng tánh nết thật là rất tốt.
Phấn muốn chi đều chìu theo nốt,
Dù cho là những việc khó khăn;
820. Phấn lại là có tánh cộc cằn,
Thường đánh chửi Nga hơn con vật.
Lòng Nga biết bao nhiêu buồn bực,
Nhưng thương chồng quên hết đớn đau;
Phấn dù làm khó dễ cách nào,
Cũng lòn cúi chìu theo tất cả.
Mặc dù thế Phấn không vừa dạ,
Đi rượu chè mèo mã lung tung;
Khi về nhà quát tháo hành hung,
Vật không động cũng tung cũng đá.
830. Tuy Nga rất lấy làm buồn bã,
Nhưng vẫn lời nhỏ nhẹ khuyên can;
Phấn chẳng nghe còn chửi mắng vang,
Nga đành phải nín thinh để chịu.
Không khí giữa gia đình nặng trịu,
Mọi việc do Phấn tạo gây ra;
Lúc ấy lòng của Phấn chán Nga,
Lại đi lấy một cô gái khác.
Nhơn một hôm trời trong gió mát,
Phấn dùng lời dối gạt bảo Nga;
840. Hãy cùng nhau đi dạo núi xa,
Đổi khí hậu ở nhà buồn quá.
Nghe chồng nói Nga mừng trong dạ,
Tưởng chồng mình cải hóa ăn năn;
Nga liền lo sửa soạn hành trang,
Rồi cùng Phấn đi xem cảnh núi.
Phấn rằng muốn có nhiều gió thổi,
Cần leo lên cho tới chót cao;
Nga nghe lời rồi Phấn cùng nhau,
Trèo đến chỗ thật cao đứng ngó.
850. Lòng của Phấn Nga đâu có rõ,
Trong lúc Nga đứng ngó phía xa;
Bất thình lình Phấn lại xô Nga,
Rơi xuống vực thẳm xa mù mịt.
Phấn cho rằng là Nga đã chết,
Liền trở về tóm hết của tiền;
Dẫn tình nhơn đến một chỗ riêng,
Tạo lập một gia đình mới khác.
Trong lúc ấy thân Nga tưởng thác,
Nhờ rớt trên ở các dây bìm;
860. May có tiều phu được trông xem,
Cõng về trại thuốc men lành mạnh.
Nga trở về nhà thì vắng lạnh,
Phấn bỏ đi biệt dạng hồi nào;
Nga buồn rầu thành phát bịnh đau,
Cách đó một năm sau bỏ mạng.
Linh hồn vẫn ôm theo nỗi oán,
Từ lâu rồi chưa đặng rửa ra;
Phấn là ngươi cô ấy là Nga,
Nghiệp oan ấy nay đà mùi mẫn.
870. Đành phải trả chớ không thể trốn,
Ngươi nên mừng chớ giận oán chi;
Nay nếu ngươi mưu giết cô đi,
Sau này phải trả nguy hơn nữa.
Tình dục vốn là nơi biển lửa,
Rơi vào thường bị nó thiêu đi;
Muốn dứt xong cái kiếp mê si,
Người hãy sớm qui y tu tỉnh.
Bỏ tất cả những mùi chung đỉnh,
Cũng chừa đi các tánh muốn ham;
880. Lìa sự đời vào cửa thiền lam,
Chịu khổ hạnh lo làm Phật sự.
Gìn chay lạt giới răn luôn giữ,
Trong lòng luôn niệm chữ A Di;
Mặc cho đời ngạo báng khinh khi,
Học theo Phật từ bi hỷ xả.
Kẻ hung ác với phường gian trá,
Được lợi to cũng chả lâu dài;
Chỉ tạm thời hưởng lấy hôm nay,
Nhưng phải trả ngày mai đau khổ.
890. Lấy kiếp người để mà hiểu rõ,
Xưa làm chồng giết bỏ vợ hiền;
Nay bị người mưu hại liên miên,
Tốn tiền của không yên thân sống.
Tạo nghiệp chẳng khác nào gieo giống,
Gieo thứ nào lên mộng thứ ni;
Đừng tưởng rằng Trời chẳng biết gì,
Luật nhân quả không ly một mãy.
Hại người tất bị người hại lại,
Làm phải thời có phải trả cho;
900. Ấy tự nhiên của máy thiên cơ,
Nay hay thuở ngàn xưa cũng thế.
Kẻ dân dã hay ông hoàng đế,
Cũng nằm trong định lệ trả vay;
Cân công bằng chẳng vị tư ai,
Có vay tất có ngày phải trả.
Thứ chậm trái, thứ mau có quả,
Tùy nghiệp nhân nặng nhẹ mà ra;
Chớ cho rằng Trời chẳng thấy qua,
Gian dối mãi ấy là lầm lạc.
910. Có một việc ta cần nên mách,
Để cho ngươi được biết lo toan;
Khắp hoàn cầu sắp có chuyển vang,
Cuộc biến hải thương tang rất lớn.
Thay cảnh vật rửa đời nhơ bợn,
Không nơi nào trốn tránh khỏi đâu;
Từ ngàn muôn triệu kiếp xưa lâu,
Vẫn thay đổi biết bao nhiêu lượt.
Lập lại mới cho người hữu phước,
Sống thanh bình sống cuộc an cư;
920. Người khá mau biết kiếp hoại hư,
Lo tu tỉnh lánh đời mộng huyễn.
Nói đến đây lão bà liền biến,
Có một luồng gió lạnh thổi qua;
Tôi giật mình vội mở mắt ra,
Lần nhớ lại lời bà trong mộng.
Tự nhiên thấy lòng tôi cảm động,
Mới bắt đầu nghĩ đến có Thần;
Từ trước nay tôi vẫn tưởng rằng,
Có người chớ Phật Thần không có.
930. Tôi đã có nhiều lần xiên xỏ,
Những hạng người bảo có Phật Thần;
Nay được nhờ thấy mộng hai lần,
Cũng một vị Nữ Thần như trước.
Dạy rành việc quả nhân tội phước,
Nhứt là cho biết được tiền căn;
Khiến lòng tôi mừng rỡ vô ngằn,
Lúc ấy túi còn mang dao nhỏ.
Tôi lấy ra ném bỏ ngay đi,
Lòng oán hờn cũng hết tức thì;
940. Kể từ đó cứ suy nghĩ mãi,
Mặc dù đã có nhiều của cải.
Từ lâu rồi đủ loại ăn chơi,
Chỉ vui say trong một phút hồi;
Qua rồi vẫn thấy đời vô vị,
Lần lượt hết qua thời ấu trĩ.
Già đến rồi khổ lại còn hơn,
Kế chết đi ra cỏ ra phân;
Ai cũng thế không hơn nữa được,
Kiếp người đến đó là rốt cuộc.
950. Khác nào như một giấc chiêm bao,
Nội bấy nhiêu cũng chán làm sao,
Huống Thần giấc chiêm bao đã dạy,
Đời sắp đến tang thương biến hải,
Nếu thế thì còn cái chi đâu.
Chỉ còn phương qui Phật hồi đầu,
May ra giải được câu trần khổ.
Nghĩ như vậy liền trong khi đó,
Tôi bèn đem nói rõ cha tôi;
Buổi đầu cha tôi chẳng ưng lời,
960. Sau rốt chịu cho tôi qui Phật.
Nhưng bảo tôi tìm người đại đức,
Để qui y khỏi thất chơn truyền;
Lúc ấy tôi đi khắp chùa thiền,
Nhưng đâu cũng không đành bụng cả.
Bởi phần đông chấp câu nhân ngã,
Cho chùa mình hơn cả các chùa;
Toàn là theo cái lối bán mua,
Mua cúng thí mua đồ chúng mới.
Thấy sư tăng lắm người giả dối,
970. Làm cho tôi muốn thối tâm thần;
Nhưng xét vì họ cũng phàm nhơn,
Bọn họ chỉ một phần tử xấu.
Không phải các sư đều vậy ráo,
Cố tìm thêm một dạo nữa xem;
Thảng như đâu đó cũng luốc lem,
Đến chừng ấy bỏ êm cũng được.
Thể theo lời thần linh mách trước,
Mình có duyên với Phật chẳng không;
Vậy rán đi tìm kiếm giáp vòng,
980. Có lẽ đến cuối cùng sẽ gặp.
Lòng nghĩ thế tôi đi tìm khắp,
Chót hết tôi đến gặp chùa này;
Một nhà sư có tiếng gần đây,
Là chơn chánh khiến ai cũng mến.
Trong lúc đó khi tôi bước đến,
Thấy mặt sư trong bụng liền tin;
Đức hạnh sư thấy lộ ra hình,
Người đoan chánh nói năng lề lối.
Từ đó tôi qui y thọ giới,
990. Ở chùa nầy cho tới bây giờ;
Thật đúng câu đạo có duyên cơ,
Duyên cơ chẳng khó sờ gặp đạo.
Do giấc mộng gặp Thần mách bảo,
Khiến cho tôi vào đạo tu hiền;
Chuyện ấy truyền đến kẻ xóm riềng,
Có nhiều kẻ đã nghiêng theo Phật.
Nãy giờ ta ngồi nghe sư nhắc,
Chuyện kể ra cũng rất hiếm hoi;
Sư vừa ngưng ta lại mở lời,
1000. Cám ơn cụ kể đời của cụ.
Thật là một cuộc đời công tử,
Bỏ đi tu là sự ít ai;
Nếu chẳng duyên sâu với Phật đài,
Khó vào ở chốn nầy lắm cụ.
Vì rằng đã từ lâu nhiễm đủ,
Tánh quen theo các sự ăn chơi;
Khi vào đây mọi việc đều thôi,
Chịu dưa muối hẩm hui rất khó.
Cảnh hoan lạc hồng trần gác bỏ,
1010. Mấy mươi năm chuông mỏ tu hành;
Kể ra là cũng một anh danh,
Đâu phải kẻ thường tình làm được.
Sư rằng cũng nhờ duyên kiếp trước,
Riêng tôi dù muốn được dễ gì;
Từ ngày tôi vào cửa từ bi,
Quá hiu quạnh nhiều khi muốn chán.
Nhưng mỗi lúc thấy lòng hơi ngán,
Được mộng lành khuyên rán lo tu;
Nhờ thế mà tôi gắng công phu,
1020. Lo hương khói mấy mươi năm đấy.
Vào ở chùa nhiều lần bị khuấy,
Giữa tăng ni lắm cái xảy ra;
Tưởng đâu tôi hoàn tục hồi gia,
Nhờ cương quyết mới là vượt khỏi.
Phật tuy hay nhưng ma cũng giỏi,
Trên đường tu tấn thối dễ dàng;
Nếu không nhờ có sự kiên gan,
Vào giờ tí ra liền giờ ngọ.
Nhịn miếng ăn đã là rất khó,
1030. Nhịn thấy nghe việc đó càng hơn;
Đã gởi thân nơi chốn thiền môn,
Còn sân nộ là không phải đạo.
Vì nghĩ thế bao nhiêu phiền não,
Mỗi ngày tôi cố tháo bỏ lần;
Suốt mấy mươi năm chẳng hề ngưng,
Song cũng chẳng dám xưng rằng hết.
Có lẽ phải trì tâm đến chết,
Được hay không là phút cuối cùng;
Trước Phật đài thề vẹn thỉ chung,
1040. Dù sanh tử tôi không thể bỏ.
Tin chân lý là đường sáng tỏ,
Mọi việc do theo đó không lầm;
Phật là chơn giác ngộ hơn phàm,
Lời ngài dạy cứ làm ắt trúng.
Ta rằng lời của sư rất đúng,
Phật vì thương sanh chúng nói ra;
Nói với lòng tự giác giác tha,
Không phải nói để mà thủ lợi.
Những chỗ của ngài thông hiểu tới,
1050. Nói ra cho người khỏi lạc lầm;
Ấy chính là do cái từ tâm,
Nên nghe đến để làm thì tốt.
Có nhiều kẻ bảo rằng không hợp,
Chẳng qua vì cố chấp một bên;
Nếu lấy lòng quản đại công nhiên,
Phải nhìn nhận không xiên xỏ được.
Ví dụ bố thí không chấp trước,
Làm ân không mong được trả ân;
Ấy mới là thật có lòng nhân,
1060. Điều này có phải chăng tốt đẹp.
Không như thói thường lòng nhỏ hẹp,
Tay trái đưa tay mặt lấy vào;
Giúp người mà không được trả mau,
Sanh hờn trách hoặc mưu nhiễu hại.
Không luận đến trong hàng giáo phái,
Chỉ dựa vào nhân loại để phân;
Người hại người là việc bất nhân,
Ngu mấy cũng cho rằng vô lý.
Người không được vì lòng ích kỷ,
1070. Đi hại người với lý bất công;
Điều này người muôn miệng một lòng,
Nhận rằng đúng chớ không thể cãi.
Thảng như có người cho rằng trái,
Trái ấy tư không phải trái công;
Trái cá nhân không trái đại đồng,
Trái với kẻ chỉ trông một mặt.
Tôi muốn nói rằng lời của Phật,
Là lời chung của khắp chúng dân;
Chớ không riêng của một cá nhân,
1080. Dựa một mặt xét phân là sái.
Tôi rất muốn sao toàn nhân loại,
Lấy tinh thần quảng đại xét suy;
Sẽ hiểu rành tâm trạng từ bi,
Chừng ấy chẳng còn nghi nữa được.
Sư rằng: cũng lấy làm mong ước,
Mọi người đồng hiểu được Phật tâm;
Để sớm lo giải nghiệp mê lầm,
Cho đâu đó hết cơn sầu khổ.
Nhưng nhận thức mỗi người mỗi chỗ,
1090. Không cùng chung trình độ như nhau;
Thành thử dù có lắm ước ao,
Tôi chỉ thấy chiêm bao một cảnh.
Ta rằng: cố nhiên vì khác tánh,
Mà mỗi người nhận định sai nhau;
Nhưng người tu cứ vẫn ước ao,
Cho nhân loại cùng nhau hướng thiện.
Biết rằng khó thành như ý nguyện,
Nhưng ý mong điều thiện cứ mong;
Cố làm dù cho được hay không,
1100. Vẫn tiêu biểu tấm gương bác ái.
Sư rằng: lời của ông rất phải,
Lòng của tôi cũng thấy thế ni;
Nên từ lâu tôi vẫn cố lỳ,
Lòng nguyện ước không khi nào bỏ.
Tôi thường khuyên thập phương lớn nhỏ,
Làm hiền lành chừa bỏ hung hăng;
Đối với nhau lấy lẽ công bằng,
Và gìn cách ở ăn trong sạch.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:05 | |
| - dcmsp3:
Lòng nhớ niệm A-Di-Đà Phật,
1110. Sẽ được qua khổ ách tai nàn;
Ngày lâm chung có Phật bước sang,
Rước về cõi Tây phang Tịnh Độ.
Có nhiều kẻ nghe tôi khuyên dỗ,
Biết ăn năn hối ngộ rất nhiều;
Nay buồn tôi như bóng xế chiều,
Chẳng còn sống bao nhiêu tuổi nữa.
Sự khuyên nhủ người đời tu sửa,
Sẽ không còn mấy bữa nữa đâu;
Bỏ xác tôi không chút buồn rầu,
1120. Nhưng tiếc sớm ngưng câu giảng giáo.
Ước gì được trường xuân bất lão,
Để kéo dài ngày giáo độ đời;
Hiện nay trào văn vật thạnh thời,
Thiếu đạo lý người đời dễ lụy.
Mỗi ngày một thêm nhiều thuyết ngụy,
Biết bao trò hoa mỹ gạt người,
Kẻ tu hành nếu thiếu kém lời;
Sẽ không giúp cho người tỉnh mộng,
Cứ quay cuồng theo luồng mới sống.
1130. Càng ngày càng mơ mộng thêm lung,
Mặc cho tâm trí nghĩ lung tung;
Khiến thân sống như cùm thêm rọ.
Tôi nhiều lúc canh ba chuông gõ;
Giấc chưa an cứ nhớ sự đời,
Lo sao cho giải thoát mọi người,
Khỏi đau khổ của đời tạm vật.
Kim tiền chẳng phải là sự thật,
Chỉ đóng vai trong một tấn tuồng;
Trên mặt đào kép lộ vui buồn,
1140. Chỉ giả dối chớ không phải thật.
Kẻ xem đó lại rơi nước mắt,
Tưởng cho là sự thật rất lầm;
Phải làm sao tỉnh được chơn tâm,
Biết thật giả khỏi lâm sầu thảm.
Hiện tại có nhiều điều dễ cảm,
Cũng chỉ làm thỏa mãn xác thân;
Nhưng xác thân là cái tạm trần,
Bồi bổ mấy cũng không bất lão.
Càng trau chuốt càng thêm khổ não,
1150. Rốt cuộc rồi mộng ảo huờn không;
Bao nhiêu điều chế tạo luống công,
Không cứu được xác thân khỏi chết.
Tôi nghĩ thế nên xem thường hết,
Sự phấn son con hát một màu;
Đại sự là cần dứt khổ đau,
Làm nhân loại hết câu lão tử.
Điều này ngày nào chưa thành sự,
Tiến đến đâu cũng chỉ trò hề;
Không thể làm tôi bị say mê,
1160. Trái lại chỉ thêm ghê gớm nữa.
Tôi đã gặp lắm lần binh lửa,
Thấy loài người hùm hổ như nhau;
Gặp mồi toan ăn xé quấu quào,
Phải hay quấy nào đâu đếm xỉa.
Giờ trước bảnh giờ sau bị chĩa,
Mạng sống người mục rẻ dường bao;
Càng thấy càng bắt dạ ngán ngao,
Lòng tin Phật càng cao thêm nữa.
Ăn khoai bắp để cho qua bữa,
1170. Chính là cơn nước lửa đó ông;
Người chỉ lo tả đột hữu xông,
Quên rằng hiện trong lòng đang đói.
Tôi lúc đó dù cho muốn nói,
Cũng không làm sao gọi ai nghe;
Thật thấy mê khó giục cơn mê,
Chính là cảnh đã qua rồi đó.
Ông đâu biết người tôi lúc nọ,
Tuổi đã già nhưng có yên đâu;
Chỗ này hầu chỗ khác cũng hầu,
1180. Ăn đã chẳng ngủ đâu yên giấc.
Thấy việc thế xét ra lời Phật,
Tôi ngậm cười cho cuộc thế gian;
Thân chưa xong lo việc bao đàng,
Đợi đến lúc hơi tàn mới hối,
Thật đáng chán sự đời giả dối.
Nhưng làm sao cho mọi người tin,
Cứ ngồi đây gõ mõ tụng kinh;
Không giúp được nhân sinh tỉnh thức,
Muốn đi khắp gần xa giảng dứt.
1190. Ngặt vì tôi thân xác đã già,
Lúc trẻ thì chưa hiểu rộng ra;
Khi hiểu được thì già khôn lịu.
Cảnh trái ngược dù ai cũng chịu,
Ông là người thông hiểu đạo đời;
Lại cũng còn tuổi trẻ đương thời,
Có đủ sức hơn tôi gấp mấy.
Còn nhiều ngày giúp cho nhân loại,
Quay về đường chánh đạo quang minh;
Tôi nghĩ ông nên mở rộng tình,
1200. Đem chơn lý kêu lên khắp chốn.
Ta rằng: tôi quản chi thân khốn,
Biết bao nhiêu chỉ dẫn bấy nhiêu;
Nói cạn lời chẳng tiếc một điều,
Từ lâu chẳng ngớt kêu tu tỉnh.
Cũng có kẻ cho rằng nói phỉnh,
Hoặc bảo là quan niệm lỗi thời;
Tôi cũng không vì đó ngưng lời;
Vẫn khuyên đến khi người nhận phải.
Đang ôm nặng khối tình nhơn loại,
1210. Đời của tôi cần phải hy sinh;
Không riêng tôi đến cả gia đình,
Xin hiến hết cho dân không tiếc.
Miễn dân chúng tu hành sớm biết,
Thân tôi dù phải chết cũng vui;
Sư cụ vừa nghe đến lời tôi,
Vừa vui vẻ vừa lời kính cẩn.
Rằng tôi chẳng phải là huệ nhãn,
Lúc nãy tôi thấy dáng người ông;
Tự nhiên tôi thồi thộp trong lòng,
1220. Cho rằng chẳng phải thường nhân đấy.
Chùa này biết bao người qua lại,
Tôi chưa hề kinh hãi một lần;
Nay thấy ông tôi khiếp tinh thần,
Có thể nói là lần thứ nhất.
Nãy giờ nghe ông phân đạo đức,
Tâm linh tôi đã mách không sai;
Như lời ông vừa nói trước đây,
Đâu có phải mỗi ai cũng nói.
Đầy bác ái ẩn sau tiếng gọi,
1230. Thật tình yêu nhơn loại đại đồng;
Nếu tăng ni đều cũng như ông,
Ai đâu dám đem lòng khinh dễ.
Tuy thân xác của ông son trẻ,
Nhưng tâm hồn già cả còn thua;
Tuy ba mươi năm ở nhà chùa,
Tôi rất thẹn rằng chưa bì kịp.
Cuộc gặp gỡ này đâu mấy dịp,
Xin ông vui lòng tiếp nói thêm;
Hôm nay dù có thức suốt đêm,
1240. Tôi vẫn chẳng thấy thèm buồn ngủ.
Già như tôi tợ cây héo rũ,
Gặp ông đây như có mưa vào;
Tôi có duyên với Phật dường bao,
Nay nghe đạo mai dầu có chết.
Ta ngồi nghe để sư nói hết,
Xong rồi ta mới tiếp thưa rằng:
Tôi cũng mang mình thịt xác trần,
Sư khen quá tôi không dám nhận.
Người thương người ấy là bổn phận,
1250. Có lạ chi khen tặng quá lời;
Tôi đem thân cống hiến cho đời,
Ấy cũng chỉ làm nơi bổn phận;
Kẻ làm sớm người thì làm muộn,
Đã là người ai chẳng thương nhau.
Thế cho nên giúp đỡ dường bao,
Cũng không thể tự hào chi được.
Lúc nào cũng mát là tánh nước,
Ấm tự nhiên là sức mặt trời;
Tuy giúp đời chẳng tưởng giúp đời,
1260. Ấy là bổn phận người phải biết.
Từ sanh tiền đến khi nhập diệt,
Phật há không xướng thuyết ấy sao;
Nếu tôi còn sống sót ngày nào,
Tư tưởng ấy vẫn rao truyền mãi.
Sư rằng thật là chơn bác ái,
Tư tưởng ông quảng đại vô cùng;
Có mà không không cũng vẫn không,
Gương soi vẫn mảy lông chẳng vướng.
Tưởng không tưởng mới là thật tưởng,
1270. Hưởng mà không thì hưởng mới chơn;
Nhận thức ông khác lối thường nhân,
Hiện tại đáng thay chân đức Phật.
Ta rằng: đạo vốn là sự thật,
Lấy đó làm trụ cốt nói ra;
Tất nhiên là chân lý không xa,
Cũng chẳng trái lời chư Phật dạy.
Bởi giả dối nên thường biến hoại,
Muốn được luôn tồn tại bất di;
Cần chặt gìn sự thật làm qui,
1280. Đặt trên cả sự gì huyễn ảo.
Đó là chỗ hướng về cửa đạo,
Muôn kệ kinh đều bảo như nhau;
Chính tôi không để vắng ngày nào,
Luôn để trí tâm vào sự thật.
Gần đây dẫu tiêu tan vạn vật,
Sự thật là sự thật không tiêu;
Đại khái là chỉ có bấy nhiêu,
Mong ai cũng tìm theo đến rốt.
Ngày nào còn kẻ chưa hiểu nốt,
1290. Nhà tu hành chưa hết việc tu;
Dù tuổi già sức yếu như sư,
Cũng hăng hái chớ ngơ bổn phận.
Mai dù chết nay luôn chỉ dẫn,
Lòng từ bi độ tận chúng sanh;
Gần tắt hơi còn để lời lành,
Xưa nay các Phật luôn thế cả.
Sư rằng rất lấy làm quí hóa,
Lời của ông nung dạ tôi thêm;
Dù ở chùa tôi chẳng ngồi êm,
1300. Thường đi lại để khuyên bá tánh.
Của cúng thí mỗi khi có thạnh,
Thường đem ra cứu cảnh dân nguy;
Cất nhà thương lập viện cô nhi,
Cất trường học hoặc xây cầu cống.
Các chùa khác lúa tiền dư đọng,
Chia nhau xài chẳng dụng cho ai;
Bỏ các điều xã hội ra ngoài,
Vì thế khiến nhiều người bất mãn.
Tôi đã đến tận nơi khuyên giảng,
1310. Cần phải lo cải chánh cho mau;
Cảnh chùa không phải chỗ làm giàu,
Chớ đội lốt nhà tu lợi dụng.
Tăng ni phải sống gần dân chúng,
Hưởng của đời phải dẫn dạy đời.
Hãy treo gương hiền đức tốt tươi,
Đừng giả dối bị người nhạo báng;
Sở dĩ bị nhiều người bất mãn,
Bởi tăng ni không đặng chơn tu.
Đành nhân hư chớ đạo bất hư,
1320. Nhưng chùa cũng tại sư mà vắng;
Chán sư, việc đi chùa bắt chán,
Một người làm cả đám mang nhơ.
Làm thế là không hợp Phật cơ,
Tu chẳng giúp ai nhờ tu dối;
Chỉ làm chướng mắt trong xã hội,
Đâu mở đường khai lối cho ai.
Nếu tăng ni cứ mãi thế này,
Cửa thiền sẽ không ai bước tới;
Ở chùa miễu không gìn luật giới,
1330. Nhìn người đời đâu khỏi hổ hang,
Và thiện nam tín nữ thập phang,
Đâu ai gọi là tăng sư nữa.
Chùa cũng chẳng phải nơi trốn nợ,
Chớ vào đây ăn ở yên thân;
Phải luôn luôn hoạt bát tinh thần,
Nêu cao cái tâm hồn tăng chúng.
Đủ phương tiện giúp vùa nhân chủng,
Chẳng ngại thân trong cảnh khó nào;
Thường ban vui cứu vớt khổ đau,
1340. Được như thế người nào chẳng mến.
Khắp đó đây tôi thường đi đến,
Chùa nào tôi cũng khuyến thế ni;
Bản ngã to như núi Tu Di,
Ít người chịu bỏ đi chuyện dối.
Mượn chùa để làm nơi thủ lợi,
Ai xem qua chẳng khỏi buồn lòng;
Lời Phật thì đáng kính đáng tôn,
Nhưng tăng chúng ít ông mến được.
Trào lưu mới cuộn như sóng nước,
1350. Lối tu hành cũ rít thế ni;
Chỉ làm cho người bắt hoài nghi.
Khó dắt họ qui y theo Phật,
Phải biết câu kiến cơ nhi tác;
Chớ không nên cố chấp một phương,
Tùy thời cơ dùng cách thích đương.
Để dắt chúng vào đường giác ngộ,
Không nên chấp đi đường thuỷ bộ;
Miễn làm sao tới chỗ được rồi,
Chiều uốn cho phù hợp thế thời.
1360. Mới không khiến cho người bỡ ngỡ,
Đời tiến bộ đạo cần tiến bộ;
Lửa cháy nhiều nước chữa phải nhiều,
Thuốc đầu thang thì chỉ bấy nhiêu,
Nhưng tùy chứng có nhiều gia vị.
Không làm thế bịnh không thể trị,
Theo ý tôi ông nghĩ thế nào?
Ta rằng lời sư đáng biết bao,
Thật là một nhà tu xứng đáng;
Sự phổ hóa tùy theo giai đoạn,
1370. Xem thời cơ không đặng chấp nê.
Miễn sao cho dân tỉnh cơn mê,
Dù phải dụng phương chi cũng được,
Kẻ đương khát mà không cho nước,
Lại cho tiền là ngược phải chăng;
Người cần tiền để giải khó khăn,
Lại đem nước đến dâng là trái.
Tùy trường hợp để mà đối đãi,
Chớ không nên chấp lấy một bề;
Khi lấy mê để độ người mê,
1380. Có vậy mới tiện bề dắt chúng.
Lời mới nãy của sư biện luận,
Nếu các chùa ai cũng làm theo;
Cửa thiền không đến đỗi mốc meo,
Bá tánh sẽ kéo nhau đến viếng.
Chẳng cản trở trào lưu dân tiến,
Giúp cho thêm phát triển tinh thần;
Giữa tăng ni với cả nhân dân,
Sẽ khắng khít không còn rời rạt.
Đâu hổ mặt là người tự giác,
1390. Và cũng không trái thuyết từ bi;
Miệng đời đâu còn kẻ khinh khi,
Ai thấy mặt tăng ni chẳng kính.
Từ lâu bị tiếng cho lừa phỉnh,
Sẽ tự nhiên được đính chánh ngay;
Kẻ vô thần cũng bắt nghiêng tai,
Huống hồ với những ai mộ đạo.
Nhà xã hội trên nền Phật giáo,
Sẽ làm cho trường cửu hòa bình;
Trí huệ dung hòa với tánh tình,
1400. Giữ vật chất tinh thần cân đối.
Tất sẽ thấy ở trong xã hội,
Con người lần trở lại tốt lành;
Những thói quen tự lợi tự sanh,
Sẽ đổi lại cộng vinh cộng lạc.
Không ai muốn cho ai phải thác,
Chia áo lành sớt bớt cơm ngon;
Toàn nhơn sanh cùng một tâm hồn,
Sống sáng suốt sống không nghèo đói.
Biểu hiện rõ khối tình nhân loại,
1410. Cũng không thua gì cõi Thiên Đàng;
Tinh thần ai cũng được minh quang,
Không ai có việc làm vô ý.
Lấy tâm chủ của đời sống trí,
Trong đời đâu còn kẻ ác nhân;
Nỗi bất bình giữa lớp chúng dân,
Lần lượt sẽ bình phân lại được.
Việc nói đức hay là nói phước,
Xét không ngoài công cuộc này đâu;
Rất mong rằng những kẻ sòng nâu,
1420. Nối liền được cây cầu xã hội.
Ngồi một chỗ luận câu phước tội,
Không đứng ra mưu lợi cho đời;
Sẽ không gây thiện cảm với người,
Dù nói mãi không ai nghe đến.
Huống có kẻ giỏi bề luận biện,
Đạo nơi thân không chuyện nào xong;
Mượn kệ kinh làm việc buôn rong,
Càng dễ khiến cho dân chúng ghét.
Nên bỏ hết những điều láo khoét,
1430. Phải thiệt tu và phải yêu dân;
Đi đúng lời cầu đạo xả thân,
Ở chùa phải cho chơn đạo hạnh.
Giữ nhân cách tốt hơn bá tánh,
Nói thế nào làm cũng thế ni;
Tránh đừng bôi lọ cửa từ bi,
Gương sáng của tăng ni nêu rõ.
Sư cụ chận lời ta liền tỏ,
Rằng lời ông dễ có mấy ai;
Luận biện theo tiếng nói thời nay,
1440. Nhưng phương pháp không sai căn bản.
Khéo gói ghém đầu đuôi chắc chắn,
Ai nghe qua cũng đặng hiểu ngay;
Quan niệm ông thật rất là hay,
Kết luận việc đạo đời là một.
Theo tôi tưởng nếu suy ráo rốt,
Đạo với đời là một không hai;
Nếu ai cho đạo ở riêng ngoài,
Đạo ấy dựa vào ai mà có.
Đời cho đạo là không dính mó,
1450. Hỏi do đâu đời có kết liên,
Thế cho nên đời đạo dính liền;
Như trái mặt không nên nói khác,
Thật ông rất là người hoạt bát.
Xin lỗi ông sự học đến đâu,
Ta thưa rằng: học chữ không sâu;
Học tai mắt chỗ nào cũng học,
Nhứt là học bằng nơi trí óc.
Mỗi ngày tôi mỗi học không ngừng,
Thường dạy tôi là cả chúng dân;
1460. Cả vật chất tinh thần đều học,
Sư còn nhớ câu: tâm là Phật.
Phật là tâm, trong các kinh chăng?
Nếu lấy tâm làm cái bổn căn,
Vô học cũng như hàng hữu học.
Phải hay quấy do tâm làm gốc,
Mọi việc chi cũng cốt tâm sanh;
Lấy tâm suy tất biết dữ lành,
Học không học không nên phân biệt.
Chỉ muốn biết hay không muốn biết,
1470. Ấy là điều cần thiết đấy thôi;
Mang thân người có đủ như người,
Khôn hay dại tùy nơi mỗi kẻ.
Nên lấy trí xét suy cạn lẽ,
Dùng chơn tâm làm chỗ y cư;
Thì dù cho có mấy hỏng hư,
Cũng nên được như người khác vậy.
Thật ra cũng vì nơi lẽ ấy,
Nhà tu hành cần phải nhắc cho;
Dựa vào tình nhân loại mà lo,
1480. Chớ không phải vì lo vụ lợi.
Sư gật đầu khi nghe đây nói,
Và bảo rằng: sành sỏi làm sao!
Trong biển đời có đủ thứ màu,
Không bị nhuộm thứ nào ít có.
Đủ phương tiện để mà tế độ,
Việc nói làm không chỗ hớ hênh;
Lấy chỗ hư đời để làm nên,
Thật không khác gì anh thợ khéo.
Nếu có kẻ được ông chỉ nẻo,
1490. Chắc chắn làm nên đạo chẳng không;
Thân đã già gối mỏi lưng cong,
Mà đạo lý chưa thông đến chỗ.
Nay hữu duyên cùng ông tương ngộ,
Vạch đường chơn chỉ rõ nẻo về;
Một lời ông giảng giáo cho nghe,
Sẽ tỉnh được giấc mê muôn thuở.
Tả sao hết được lòng mừng rỡ,
Đời của tôi còn có chi hơn;
Nay được ông vẹt gút mây trần,
1500. Mai dù có bỏ thân cũng được.
Sự học của ông vừa nói trước,
Đời ít ai học được như ông;
Học bề ngoài ít kẻ học lòng,
Lo nhánh lá chớ không lo gốc.
Gọi rằng học nhưng mà vô học,
Vô học mà học hết là ông;
Mỗi khi nghe và mỗi khi trông,
Chỗ nào cũng làm thành bài học.
Chẳng những thế còn trong trí óc,
1510. Vẫn luôn luôn tự học lấy mình;
Ấy là phương phản tỉnh hồi minh,
Ai cũng thế đâu sanh tội khổ.
Chẳng được vậy chính mình khó độ,
Đâu còn thừa sức để dắt ai;
Lời ông càng nghĩ thấy càng hay,
Rất quí hóa của thời văn vật.
Lối luận biện không sai sự thật,
Lời nói nào cũng rất tinh minh;
Không chấp kinh nhưng chẳng ngoài kinh,
1520. Thật là lối biến quyền rất khéo.
Có đủ cách uốn chiều tròn méo,
Dìu dắt người khỏi nẻo lạc lầm;
Nếu các tăng sư ở thiền lâm,
Hầu hết được như ông tất cả.
Tất mở rộng được cơ hoằng hóa,
Sẽ giúp cho nhiều kẻ hồi tâm;
Ta thưa rằng: tại chẳng muốn làm,
Việc tôi biết sư tăng đều biết.
Vì yếm thế hoặc không cương quyết,
1530. Nên không lo đến việc hoằng dương;
Cái lối tu tiêu cực tầm thường,
Vô tình đã đóng khuôn nhà đạo.
Ngồi một chỗ đợi chờ Phật đáo,
Không lo đi truyền giáo cho dân;
Quen lối tu độc thiện kỳ thân,
Trái với thuyết tế dân độ thế.
Lối tu ấy xưa nay thành lệ,
Nên cửa thiền càng bế hẹp lần;
Tôi rất mong khắp hết sư tăng,
1540. Nên theo lối tu hành tích cực.
Cần liên lết và nên tổ chức,
Bành trướng cho đạo Phật rộng ra;
Bỏ thói quen chùa họ chùa ta,
Cho đâu cũng một nhà Phật giáo.
Có trách nhiệm giữ gìn mối đạo,
Khi thấy sai nên bảo cho nhau;
Gương đạo mầu luôn được nêu cao,
Có thế mới kịp trào lưu tiến.
Thiếu đoàn kết thiếu dùng phương tiện,
1550. Tất nhiên không phát triển kịp thời;
Càng ngày càng bị chúng bỏ rơi,
Không phổ biến được lời Phật giáo.
Nếu muốn được mọi người biết đạo,
Phải gia công truyền giáo mỗi ngày;
Người này rơi người khác tiếp tay,
Như thế mới đạo khai rộng lối.
Tùy hoàn cảnh tùy theo xã hội,
Tùy dân tâm của mỗi thời kỳ;
Để ứng dùng phương pháp thích nghi,
1560. Sẽ khiến được người qui theo đạo.
Xem tánh người để mà chỉ bảo,
Bởi mỗi người nghiệp tạo khác nhau;
Phải dắt lần từ thấp lên cao,
Nhứt là tránh buổi đầu chớ vội.
Xem trình độ và xem phẩm giới,
Để dùng lời tương đối với người;
Chớ gặp ai cũng nói một lời,
Sẽ không hạp với người khác cảnh.
Tăng sư phải cho cao đạo hạnh,
1570. Để hiểu ra được tánh người đời;
Tất nhiên là sẽ dụng hợp lời,
Không chạm phải những nơi đáng tiếc.
Xem đến mạch chứng chi phải biết,
Mới cho toa phù hợp bịnh nhân;
Chứng không rành bịnh chẳng lành thân,
Nhiều khi hại bịnh nhân là khác.
Phải thật nghiệp chớ nên nói khoác,
Đừng để mù mà dắt kẻ đui;
Phật đã thành Phật mới độ đời,
1580. Tăng đã đạt mới lôi dắt chúng.
Lý không rõ nói bừa đâu trúng,
Nghĩa chưa thông luận bướng càng sai;
Thấu ngọn ngành nói dở mà hay,
Chưa căn cội nói hay mà dở.
Mê thấy khít nhưng mà trống hở,
Ngó như sai mà có sai đâu;
Thật mà quyền quyền thật rất mầu,
Không một cử động nào bất pháp.
Chưa khảy mỏ trứng không nên đập,
1590. Hột còn non gieo gấp không lên;
Nên làm hư, hư lại làm nên,
Nhà tu chớ nên quên điều ấy.
Sư ngó đây mắt không hề nháy,
Rằng thật là chơn lý tột vời;
Thế mới là tỉnh được người đời,
Muôn pháp chỉ một lời gồm cả.
Xin hỏi ông đường về Phật quả,
Nhà tu hành cần có những chi?
Ta rằng không nên có những gì,
1600. Mới có thể là qui Phật quả.
Sư rằng lời rất minh được dạ,
Xưa nay cùng chư tổ nhứt ngôn;
Sống ghi tâm thác gói theo hồn,
Lời châu dễ khách trần nghe được.
Gặp ông tợ cá mà gặp nước,
Mê dù bao cũng được tỉnh ra;
Vậy xin ông mở lượng hải hà,
Dạy thêm nữa cho già được biết.
Ta rằng có chi mà khẩn thiết,
1610. Tôi hiểu như sư biết từ lâu;
Lấy trong kinh chớ có khác đâu,
Nói việc của các sư thường tụng.
Đường bột có mà không chịu dụng,
Để bao lâu thì cũng bột đường;
Bánh nhiều màu nhiều thứ khôn lường,
Nhưng nguyên liệu vẫn đường với bột.
Số ngàn muôn cũng từ con một,
Nhánh lá nhiều nhưng gốc không hai;
Kinh để xem cho rõ vạy ngay,
1620. Không phải để tối ngày tụng luống.
Cứ chất đống trên bàn nhiều cuốn,
Chẳng chịu xem hiểu tận đuôi đầu;
Thì dù cho có tụng bao lâu,
Nghĩa lý của một câu không rọi.
Có khác nào như chim học nói,
Người nói sao nhái lại biết chi;
Chỉ làm cho tủi dạ từ bi,
Không nối được bước đi của Phật.
Phật đâu muốn nhà tu ẩn dật,
1630. Muốn vào xông ra đục cứu dân;
Luôn vui lòng vị nghĩa vong thân,
Tình yêu chúng sanh bằng tình mẹ.
Không hề sống thân mình riêng rẽ,
Vẫn sống chung với kẻ thập phương;
Nghe ai đau khổ biết lo lường,
Thấy ai dại khờ toan chỉ dắt.
Bất luận ai gặp cơn nguy ngặt,
Ra tay không để mắt nhìn suông;
Vui cùng vui buồn vẫn cùng buồn,
1640. Giữa bá tánh với mình như một.
Nghèo đến nỗi muối còn một hột,
Cũng cắn hai chia sớt cho nhau;
Đối người nghèo cũng thể người giàu,
Đều quí mến như nhau tất cả.
Chớ trọng giàu cúng nhiều hoa quả,
Đừng khinh nghèo chẳng có món chi;
Quí tâm hơn là quí vật gì,
Như vậy mới là sư chơn chánh.
Chẳng khiếp sợ người quyền lực mạnh,
1650. Không xem thường kẻ chẳng thế oai;
Mang xác trần ai cũng như ai,
Say hay tỉnh là nơi đáng kể.
Có tội lệ hay không tội lệ,
Ấy là nơi đánh giá con người;
Nhưng nhà tu đối với người đời,
Tội hay chẳng cũng vui dạy dỗ.
Vì ai cũng ở trong biển khổ,
Cần phải nên tế độ như nhau;
Càng thấy người có lắm khổ đau,
1660. Càng muốn cứu cho mau khỏi nạn.
Tóm tắt phải lấy lòng bình đẳng,
Đối đãi trong bá tánh thập phương;
Chớ biệt phân nhiều ít lòng thương,
Thế mới chẳng sai đường bác ái.
Rất mong các sư nên xem lại,
Kinh trên bàn tụng mãi từ lâu;
Xem chừng nào đạt lý cạn sâu,
Lúc đó sẽ tiện câu hoằng hóa.
Chớ ngồi mãi ở trong liêu xá,
1670. Hãy bước ra đi hóa độ người;
Làm cho người mê được tỉnh hồi,
Ấy bổn phận của người Phật tử.
Cuộc sống chết là nơi đại sự,
Cần lo mau do dự không nên;
Tuổi cứ già mặc kẻ nhớ quên,
Bóng trời chẳng đứng yên một chỗ.
Khi cần độ mà không lo độ,
Dịp lành qua rồi khó gặp ra;
Không riêng lo cho phận mình già,
1680. Lo kẻ khác cũng là sắp chết.
Họ còn sống mà không đến thuyết,
Đợi chết đi tụng nghiệp đâu tiêu;
Lúc mạnh không chịu dạy một điều,
Gần xuống lỗ mới kêu hành thiện.
Còn giờ đâu để mà tu luyện,
Niệm Phật không thể niệm đủ câu;
Ấy phải chăng việc đáng buồn rầu,
Nhà tu há chẳng lo âu tới.
Thêm lại gặp phải trào lưu mới,
1690. Dễ làm cho xã hội quay cuồng;
Kẻ xấu xa nhiều chẳng số lường,
Người trong sạch đếm không mấy kẻ.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:06 | |
| - dcmsp4:
Càng không thể ngồi yên lặng lẽ,
Nhà tu nên mạnh mẽ đứng lên;
Dùng đủ lời khéo léo nhủ khuyên,
Khiến nhiều ít người nghiêng theo đạo.
Được nhiều kẻ phụng hành chánh giáo,
Sẽ bớt nhiều thảm não trong đời;
Hiểu phận mình chớ phút nào ngơi,
1700. Rất mong các tăng sư được thế.
Nhiều khi chỉ một vài câu kệ,
Mà lấp qua được bể sầu đời;
Khách thiền môn há nỡ tiếc lời,
Không cứu giúp những người mê khổ.
Mỗi bát cơm mỗi đầy công khó,
Ăn không lo thì nó chẳng tiêu;
Nợ không tròn thì đạo chẳng siêu,
Há ngồi mãi trong liêu đợi chết.
Lời của đây mới vừa nói hết,
1710. Sư tiếp lời rằng thật đúng thay;
Nếu tăng sư từ trước đến nay,
Làm như thế đâu ai hờn ghét.
Nhưng rất tiếc ít nơi đoàn kết,
Và ít ai lo việc hoằng khai;
Kệ kinh ai cũng tụng mỗi ngày,
Nhưng nghĩa lý ít ai xét tới.
Kẻ xét biết làm thinh không nói,
Người nói thì vụ lợi nọ kia;
Phần nhiều là mượn Phật làm bia,
1720. Để gạt gẫm người mê lấy của.
Chính tôi cũng đau lòng đòi bữa,
Như lời tôi vừa đã thưa qua;
Từng để chơn đến các thiền gia,
Nhận lời phải thấy ra ít kẻ.
Thành thử vẫn còn nhiều tập tệ,
Theo lối tu bệ vệ phần đông;
Suốt ngày lo ăn luống ngồi không,
Không thí một chút công cho chúng.
Chẳng dám nói là phường vô dụng,
1730. Cứ thế là đời sống ra gì;
Thường tụng kinh trước tượng từ bi,
Sao chẳng nhớ hành vi của Phật.
Phật đâu phải là người ẩn dật,
Và cũng không ngồi suốt trong liêu;
Vừa rồi ông đã dạy mấy điều,
Điều nào cũng cao siêu tất cả.
Thấy những hạng tu hành dối giả,
Tự thấy tôi trong dạ xốn xang;
Lấy làm thương Đức Phật Tây phang,
1740. Bị kẻ ở thế gian lợi dụng.
Luật giới chẳng hề làm cho đúng,
Cũng xưng là Hòa Thượng Yết Ma;
Thấy việc người bắt ngại phận ta,
Vì là cũng đồng nhà sư cả.
Cũng tại họ làm điều man trá,
Nên người đời nghi cả các sư;
Nếu họ không cải sửa thói hư,
Chùa lần lượt không người đến viếng.
E rằng những người đang tinh tiến,
1750. Vì đó mà thối chuyển biết đâu;
Như thế là tai nạn rất sâu,
Còn ai nối được câu Phật pháp.
Ta liền chận lời sư nói gấp,
Đuốc từ bi không tắt chớ nao;
Hạng giả tu đông đến mực nào,
Đạo Phật vẫn làu làu sáng tỏ.
Thời thạnh suy do người tạo nó,
Chơn lý thì vẫn có một đường;
Ai biết theo là phước khôn lường,
1760. Ai trái lại là vương đầy họa.
Xưa nay vẫn cứ như thế cả,
Và từ đây cũng chả đổi dời;
Biết tu là người biết sống đời,
Không tu ấy là người tự sát.
Tu tôi nói tùng lương cải ác,
Bỏ đường mê nẻo giác tìm qua;
Biết ngăn ngừa ý tưởng xấu xa,
Biết cương quyết làm ra việc phải.
Đó là nghĩa của người tu cải,
1770. Chẳng phải tu theo lối ngồi không;
Tu cần trau sửa cả ngoài trong,
Việc riêng đến việc chung đều sửa.
Hại biến lợi lòng không lần lựa,
Dữ đổi lành trí để nhớ luôn;
Tâm không cho ngoại vật làm cuồng,
Lúc nào cũng chủ thân được cả.
Tu như thế sẽ trừ được họa,
Phẩm bậc nào dù khó cũng lên;
Mỗi người tu theo ý tôi khuyên,
1780. Chẳng toại nguyện tôi xin chịu đọa.
Sư rằng: lời của ông đúng cả,
Nếu người tu như thế không thành;
Thân tôi dù muôn thác cũng đành,
Trong lòng vẫn tưởng tin triệt để.
Ông vừa bảo thạnh suy do thế,
Chơn lý là một thể không hai;
Từ ngàn xưa cho đến những nay,
Phật pháp chẳng bị ai làm mất.
Đã là Phật trước sau vẫn Phật,
1790. Tự nên không phải vật tạo nên;
Vì vậy mà vẫn được vững bền,
Không bị cuộc nổi chìm làm hoại.
Thật là lời của ông rất phải,
Giúp lòng tin tôi lại mạnh thêm;
Kể từ đây tôi chẳng ngồi êm,
Quyết nỗ lực khêu lên đuốc thiện.
Kết liên với người đồng quan niệm,
Để làm cho phát triển đạo thiền;
Cho người đời thấy rõ tục tiên,
1800. Không còn nói đạo chuyên lừa dối.
Chính mình phải làm cho được trổi,
Để cho hàng tu dối nhìn vào;
Sẽ thẹn lòng sửa chữa phần nào,
Cũng gián tiếp giúp vào họ được.
Mong Phật giúp tôi nên nguyện ước,
Ân đức này dù chết chẳng quên;
Ta rằng: trời chẳng phụ người hiền,
Ý nguyện tốt sẽ nên có thuở.
Giữa đường dẫu xảy ra dang dở,
1810. Mong sư đừng lấy đó ngã lòng;
Ví dụ làm hiện kiếp không xong,
Nguyện kiếp khác nối luôn chớ bỏ.
Làm việc lớn có nhiều khăn khó,
Cứ làm luôn chớ có hẹn ngày;
Đem tấm lòng cứng rắn dẻo dai,
Đối phó mọi chông gai cản trở.
Được như thế mới xong nần nợ,
Và đạo mầu cũng sẽ tựu thành;
Để tà ma làm rối đức tin,
1820. Việc chi cũng tan tành tất cả.
Phải tin tưởng phải bền chặt dạ,
Nhứt định là đạo quả sẽ nên;
Tôi cũng từng gặp lắm truân chuyên,
Nhưng vẫn giữ lòng nguyền như một.
Và từ đấy đến ngày kết cuộc,
Cảm thấy còn nhiều khúc gay go;
Nhưng trong lòng chẳng chút sợ lo,
Ý chí mạnh thắng qua tất cả.
Nếu không mở thông đường thiên hạ,
1830. Nguyện chẳng ưng cất giá lên vai;
Mắt nếu còn thấy kẻ nàn tai,
Lòng quyết chẳng quên ngày giải thoát.
Quản chi nỗi khổ đau thân xác,
Miễn làm sao sớm đạt ý nguyền;
Chẳng những đời mình hết não phiền,
Mà kẻ khác cũng yên lạc nghiệp.
Châu ngọc há để cho phủ líp,
Phải vẫy vùng cho sắc chói chan;
Nếu chẳng thay được khắp nhơn gian,
1840. Cũng rán được một làng một nước.
Nghĩa là phải làm cho nên được,
Không để ngơ qua cuộc đời tàn;
Luôn đấu tranh với mọi thời gian,
Cũng chẳng để ai làm dừng bước.
Chẳng riêng tạo để mình hưởng phước,
Mà lo cho người được lây duyên;
Bụi hồng trần sớm gội cho yên,
Cùng được thấy nhà Tiên cảnh Phật.
Việc trước hết ngay trên quả đất,
1850. Đồng nhau chung hưởng cuộc thái bình;
Chẳng còn nghe ai muốn chiến chinh,
Cũng không kẻ nào sanh kế bạo.
Giữa ai cũng lấy lòng hòa hảo,
Biết xử phân theo đạo công bằng;
Không riêng mình muốn được no ăn,
Nỡ ỷ mạnh lấy ngang của kẻ.
Ai cũng biết nói lời nhỏ nhẹ,
Không ai dùng lời lẽ cộc cằn;
Biết xét lòng và biết ăn năn,
1860. Người nào cũng có tâm tự trị.
Sống nề nếp sống theo cương kỷ,
Ai cũng tôn đạo lý làm trên;
Mặt mỗi người đều lộ vẻ hiền,
Ngày ấy mới Thần Tiên tại thế.
Người tu niệm phải nên lập thệ,
Làm sao cho được thế mới thôi;
Sống chưa làm xong xả sự đời,
Chết đâu được về ngồi thượng cảnh.
Sư nghe đến lời đây nhấn mạnh,
1870. Khiến mắt thêm nhìn thẳng vào đây;
Và nói rằng ở giữa thời nay,
Tư tưởng ấy ít ai có được.
Vừa siêu nhiên vừa nên thích hợp,
Nếu phần đông người được thế ni;
Sự khổ đau nhơn loại mất đi,
Cõi Cực Lạc tức thì hiện đến.
Lời ông khiến lòng tôi quá mến,
Chính ấy là bờ bến siêu sinh;
Khách hồng trần lấy đó làm tin,
1880. Tất sẽ được đưa mình khỏi tục.
Kẻ nào biết tầm trong lánh đục,
Nghe lời ông sớm dứt nợ đời;
Chẳng bao lâu đến mức tuyệt vời,
Đáng con Phật đáng người yêu kính.
Ta rằng: mọi việc do chữ tín,
Lời nói dù chơn chính dường bao;
Không chịu đem lòng tưởng tin vào,
Chơn chánh ấy làm sao thành được .
Vì thế nên lòng tin làm trước,
1890. Có lòng tin các cuộc sẽ nên;
Cũng nhờ tin khổ mấy cũng quên,
Lòng tin giúp người thêm bền chí.
Mọi việc chi sau khi xét kỹ,
Nếu chánh chơn đặt chí tin vào;
Rồi cứ lo dù chậm hay mau,
Không chán nản miễn sao được việc.
Điều nầy rất muốn ai cũng biết,
Để tránh điều hối tiếc nơi tâm;
Sư rằng: lòng tin cũng dễ lầm,
1900. Nhưng xét trước rồi tin đúng lắm.
Mỗi lời ông tôi đều suy gẫm,
Thấy rằng đâu đó cũng khít khao;
Mỗi câu đều mỗi có rấp rào,
Chỗ nào cũng dồi dào ý tứ.
Tôi xin nguyện để lòng ôm giữ,
Làm sao cho khỏi phụ lòng ông;
Sớm nên người yêu của đại đồng,
Được thế mới là không hổ phận.
Trong mấy tiếng đồng hồ học vấn,
1910. Hơn mấy mươi năm tụng kinh suông;
Giúp tôi thêm biết rõ chánh đường,
Công đức ấy khó lường sao hết.
Có lẽ ông cũng đà mỏi mệt,
Đêm đã khuya trời rét thế này;
Xin ông vui lòng ngủ lại đây,
Mai rồi sẽ hồi qui chẳng muộn.
Ta nhận lời của sư vừa muốn,
Bước theo sư vào chốn hậu liêu;
Vừa nằm vừa suy nghĩ đủ điều,
1920. Việc sư cụ cũng đeo ý nghĩ.
Ấy cũng một cuộc đời kỳ bí,
Cảnh giúp người duyên đẩy xô người;
Ắt có duyên với Phật lâu đời,
Nên mới được có trời báo mộng.
Nếu chẳng vậy người đang thân sống,
Khó thấy người nơi chốn tiêu dao;
Còn việc ta cũng lạ làm sao,
Đêm khuya vắng đi vào chùa miễu.
Sư chẳng trách lại còn mến tríu,
1930. Ắt cũng duyên chi khéo tạo nên;
Người gặp nhau trong lúc đầu tiên,
Mà thông cảm là duyên muôn thuở.
Ta cứ nghĩ thế lòng không hở,
Rồi bỗng nhiên đã ngủ hồi nào;
Vừng hào quang liền chói ánh vào,
Một vị Phật ngồi cao mấy trượng.
Trông thấy Phật ta liền quì xuống,
Mở miệng ra vừa muốn thưa lên;
Thì Phật ngài đã nói trước liền,
1940. Rằng trước đây độ bát bá niên.
Cũng ở nơi một cái chùa thiền,
Có một vị tu hiền rất chính;
Thường tập hợp nữ nam thiện tín,
Dạy những điều đạo hạnh cho nghe.
Độ được nhiều người khỏi bến mê,
Khiến bá tánh gần xa đều mến;
Hạng dân dã vua quan đều đến,
Thường do lai sáng kiến nhà sư.
Khiến cảnh chùa lui tới chật người,
1950. Phật pháp cũng một thời hưng thạnh;
Một hôm nọ vào khuya vắng lặng,
Có một tên ăn trộm vào chùa.
Tên trộm đang khi vác khuân đồ,
Trong khi ấy nhà sư trông thấy;
Sư liền bảo nhỏ tên trộm lại,
Hỏi tại sao đi lấy của chùa.
Trộm rằng vì con vợ chẳng no,
Cho nên phải làm nghề ăn trộm;
Cảnh sống của gia đình rất khốn,
1960. Con thì đông vợ cũng quê mùa.
Không đủ ăn quần áo te tua,
Cực chẳng đã mới thò tay cắp;
Trong lúc ấy nhà sư bảo gấp,
Nên bỏ đi nghề nghiệp bất lương.
Vì nó không khiến một ai thương,
Bị bắt gặp chịu đường tù tội;
Vậy ngươi phải từ đây cải hối,
Lo làm ăn theo lối lương hiền.
Nói xong sư vào lấy gói tiền,
1970. Cho tên trộm bảo đi ra gấp;
Trộm vừa xá vừa run lập cập,
Lãnh tiền rồi chạy gấp về nhà.
Trộm chừng khi mở gói tiền ra,
Bắt hốt hoảng vì là nhiều quá;
Trộm vừa sợ vừa mừng khôn tả,
Vừa biết ơn sư có chi bằng.
Cho sư là một vị chơn tăng,
Trong lòng thấy nảy sinh kính phục;
Từ ngày ấy bắt đầu tin Phật,
1980. Số tiền kia giao hết vợ con.
Rồi lánh mình vào chốn núi non,
Bỏ nghề trộm xả thân tu niệm;
Trở nên một nhà tu hạnh kiểm,
Sau được nhiều người mến đến danh.
Vị sư kia con có biết chăng,
Chính là cái tiền thân con đó;
Còn tên trộm ở vào thuở nọ,
Chính là sư hiện ở chùa này.
Người với con duyên rấm sâu dầy,
1990. Cho nên khiến hôm nay tái ngộ;
Nếu kiếp trước không nhờ con độ,
Thì người đâu hối ngộ nơi tâm.
Tuy trải qua ước tám trăm năm,
Duyên ấy cũng vẫn còn khắn chặt;
Nay người đã nên sư thiền đức,
Con cũng là nối Phật tu hành.
Càng khiến cho duyên ấy thêm lành,
Nên người mới gặp con là mến;
Duyên ấy gợi cho lòng nhớ đến,
2000. Chớ nào đâu phải chuyện vô căn.
Vì muốn cho con rõ nguyên nhân,
Nên Phật mới hiện thân đến nhắc;
Ta cúi mình tạ ơn Đức Phật,
Rằng còn chi từ trước đến nay.
Nhờ Phật luôn sẵn dạ chỉ bày,
Ân đức rộng đất trời khó sánh;
Khi hữu sự hoặc trong khổ cảnh,
Có Phật ngài hiện đến dắt dìu.
Lời lành cho nghe biết bao nhiêu,
2010. Không nhờ Phật con đâu nên đạo;
Mọi việc chi cũng nhờ Phật bảo,
Tâm hồn con Phật tạo đấy ư!
Nếu không nhờ Phật dạy nên hư,
Con khó biết rõ nơi tà chánh.
Tuy nhiên đối với đường đạo hạnh,
Học bao nhiêu cũng chẳng thấy cùng;
Xin Phật vì sự lợi ích chung,
Dạy thêm nữa cho con được hiểu.
Phật rằng con khéo tìm đạo diệu,
2020. Đạo tuy sâu sức hiểu cũng dài;
Đạo không trong mà cũng chẳng ngoài,
Nơi bổn tánh của người sẵn có.
Nếu như ai muốn tìm thấy nó,
Lấy mắt thường thì khó thể trông;
Phải lấy lòng mới thấy được lòng,
Có chẳng được mà không chẳng được.
Còn một chấp niệm nào thúc phược,
Là vẫn còn bó buộc trong lòng;
Sự não phiền không thể nào không,
2030. Còn như thế là còn luân lạc.
Từ bi chẳng từ bi vướng mắc,
Ấy mới là chơn thật từ bi;
Không bận tâm ở một sự gì,
Dù việc ấy hữu vi hay chẳng.
Không nghiêng trệ mới là bình đẳng,
Chẳng buộc ràng mới đặng tự do;
Con lấy đây làm thước để đo,
Siêu hay đọa cứ do theo đấy.
Ta liền chấp hai tay cúi lạy,
2040. Xin đội ơn Phật dạy cho con;
Không riêng con hứa sẽ làm tròn,
Còn nguyện giúp xa gần xong điệu.
Phật dạy chỉ những lời cao diệu,
Con dám đâu để hiểu một mình;
Xin truyền ra cho chúng làm tin,
Để trở lại nẻo lành sáng tỏ.
Có một việc con xin thưa rõ,
Xin Phật Ngài vẹt mở gút mây;
Hiện xác con đang sống nơi đây,
2050. Thân bịnh lại gặp ngày trắc trở.
Nhiều chướng ngại cản đường hóa độ,
Lắm chông gai trên lộ từ bi;
Muốn bước mau nhưng khó nổi đi,
Đường Phật giáo nhiều khi nghẹt lối.
Muốn đâu cũng mây lành bủa tới,
Ngặt gió phàm cứ thổi mãi lên;
Ý nguyện này chẳng được sớm nên,
Lòng con thấy muôn nghìn đau đớn.
Nhiều lúc quá buồn cho thời vận,
2060. Muốn chết không muốn sống trên đời;
Nhưng nặng tình với khắp mọi người,
Đến nay vẫn còn ngồi dương thế.
Phật liền nhẹ lời rằng ớ trẻ,
Vận đen chưa phải lẽ chết thân;
Đã nặng duyên với khách hồng trần,
Phải dắt họ đến chừng hết khổ.
Càng chướng ngại càng nên hóa độ,
Không chông gai sao rõ từ bi;
Khó bước mau thì chậm cũng đi,
2070. Chớ ngại lối nhiều khi bị nghẹt.
Mây cứ bủa mặc tình gió quét,
Cố làm sao che mát chúng sanh;
Con chớ buồn chưa toại nguyện lành,
Nguyện lành ấy sẽ thành tựu được.
Dù hoàn cảnh khắt khe trái ngược,
Vẫn bình tâm chờ cuộc thuận xuôi;
Phật biết con lòng chẳng thấy vui,
Nhưng chết cũng chưa nguôi được dạ.
Nên sống để rộng khai đạo cả,
2080. Sống làm cho thong thả khắp nơi;
Không sống riêng mà sống cho đời,
Sống cho khắp mọi người hết khổ.
Vì bác ái vì câu hóa độ,
Cho nên cần phải có xác thân;
Sống cho mình chỉ có một phần,
Muôn phần để sống sanh cho thế.
Sống thì khó chết thì rất dễ,
Khó sống nhưng sống để cứu đời;
Cả chúng sanh chưa được thảnh thơi,
2090. Lòng từ muốn tắt hơi sao nỡ.
Chết thân cũng chưa xong được nợ,
Chết ấy càng khiến dở dang thêm;
Đến chừng nào biển lặng sóng êm,
Khi ấy sẽ nằm yên để chết.
Nước tịnh rửa bụi trần chưa hết,
Chết đi ai lau quét cửa thiền;
Rán chịu lì trong cuộc đảo điên,
Để đổi dữ ra hiền cho chúng.
Gió thổi mấy Trời không hề lụn,
2100. Nước xao bao Trăng cũng sáng choang;
Khổ thế nào con cũng chớ than,
Cứ lo tới cho đàng suôn sẻ.
Đêm đêm thấy thân con quạnh quẽ,
Phật lấy làm đau dạ lắm con;
Trong khó khăn giữ phận vẹn tròn,
Ai xem đến mà không kính mến.
Sẽ có gió xuôi chiều thổi đến,
Con chớ lo bờ bến khó kề;
Khi con về dắt chúng theo về,
2110. Phật nơi chốn liên huê luôn đợi.
Con rán chịu từ đây đến hội,
Cuộc trùng lai đền bội công lao;
Kẻ tu hành thỏa dạ khát khao,
Người nhơn đức phỉ câu mong ước.
Cảnh đau khổ tan như mây nước,
Cuộc lao lung sẽ được giải trừ;
Ấy là ngày thế giới an cư,
Con rán dắt cho người đến đó.
Từ nay dẫu còn nhiều khăn khó,
2120. Vì yêu dân chớ có nản lòng;
Mượn phàm thân cứu khách hồng trần,
Thói thường chết con đừng nghĩ nữa.
Có cái chết con cần nên lựa,
Nên chết lòng tưởng nhớ xấu xa;
Chết tánh tham và chết lòng tà,
Chết những việc gọi là bất thiện.
Chết mắt thấy sắc chi chẳng nghiện,
Chết tai nghe đủ tiếng không mê;
Chết mũi mùi chi chẳng khen chê,
2130. Chết lưỡi nếm vị gì không chấp.
Chết thân chẳng nhiễm khi đụng vật,
Chết tâm không vướng mắc sự nào;
Chết hết lòng ô nhiễm trần lao,
Chết cả tánh chấp câu nhơn ngã.
Chết hờn giận chết điều dối trá,
Và chết luôn lòng dạ ghét ghen;
Chết lời nhơ chết ý đê hèn,
Các việc quấy đều nên chết cả.
Được như thế tất là thong thả,
2140. Không lúc nào trong dạ buồn rầu;
Kẻ tu hành ở buổi ban đầu,
Làm theo đấy sẽ mau nên đạo.
Con khá nhớ để khi truyền giáo,
Nhắc cho đời được hiểu làm theo;
Cõi hồng trần còn lắm nạn eo,
Dân chúng sớm nên theo đạo lý.
Nói xong Phật hóa quang hồi vị,
Ta cúi đầu lạy tạ theo sau;
Tự thấy lòng vui biết chừng nào,
2150. Cám ơn Phật kể sao cho hết.
Kể từ ấy tâm trần đã chết,
Sự nhiễm ô tiêu diệt sạch không;
Tuy đeo mang thân xác cõi hồng,
Mà đã chẳng còn lòng mến tục.
Nơi nào cũng xông pha lẩn lút,
Tâm không hề trói buộc nơi đâu;
Vì muốn đời tỉnh giấc mê sầu,
Phải giả dạng đủ màu thế sự.
Muốn độ dữ vào trong đám dữ,
2160. Muốn cứu hiền dùng sự rất hiền;
Miễn sao cho người rõ tục tiên,
Mặc thân xác biến quyền nhơ sạch.
Mong ai cũng trắng đen khá vạch,
Để cho minh là Phật hay phàm;
Lời đây khuyên nếu chịu gìn kham,
Không nên đạo đây cam chịu tội.
Bởi thương mến nhân sanh vạn bội,
Nên đem lời Phật gọi kể ra;
Chuyện tăng sư ở chốn thiền gia,
2170. Cũng kể nốt để mà hiểu rõ.
Việc hiện hữu là điều thật có,
Còn duyên xưa chuyện đó ly kỳ;
Cõi thế gian bất luận việc gì,
Đều có hệ với khi trước cả.
Muốn già trẻ tin câu nhân quả,
Cho nên đây mới kể cạn lời;
Nếu xét qua tiền kiếp mọi người,
Sanh khắp chỗ không nơi nào chẳng.
Nợ vay trả với nhau nhiều chặng,
2180. Không một ai mà chẳng nợ ai;
Người ở Đông có nợ ở Tây,
Kẻ Nam lại đã vay nghiệp Bắc.
Quả đất rộng nhưng mà thấy chật,
Đừng tưởng xa không việc liên can;
Lời kể qua thật rất rõ ràng,
Nghiệp xưa với thân đang hiện sống.
Nếu sư chẳng nhờ lời trong mộng,
Việc trả vay đâu đặng hiểu ra;
Phật khó trông nhưng chẳng ở xa,
2190. Mọi việc của người ta đều biết.
Phật thấy rõ chúng sanh tạo nghiệp,
Tùy cơ duyên cứu vớt cho ra;
Lòng từ bi rộng lớn sâu xa,
Không hề để bỏ qua một kẻ.
Xin lớn nhỏ xét cho rốt lẽ,
Để khỏi đau lòng kẻ đại bi;
Nhớ kỹ rằng đây nói lời chi,
Dựa theo bóng huyền vi mà nói.
Xin rán đọc chớ nài mệt mỏi,
2200. Đọc để cho rõ mối chánh tà;
Xem ngàn lần mà chẳng hiểu ra,
Cũng đừng chán hãy mò đọc mãi.
Cố đọc riết có ngày sẽ thấy,
Chừng thấy ra chỉ khảy móng tay;
Nơi xa ngàn ta vẫn còn đây,
Việc không hiểu hỏi ngay chớ ngại.
Ngày nào cũng trông tin thơ lại,
Đêm vẫn luôn chờ thấy mộng lành;
Thấy ai người thật chí tu hành,
2210. Kể sao hết nỗi tình yêu mến.
Hồn ta vẫn thường hay lui đến,
Viếng thăm người tu luyện chơn thành;
Mỗi lần nghe có tiếng chim xanh,
Trong lòng thấy muôn nghìn náo nức.
Biết rằng có người chơn đạo đức,
Cành sen nơi cõi Phật nở ra;
Trên đầu kia có ánh sáng lòa,
Hương công đức bay ra thơm ngát.
Ngồi một chỗ có thần đem trát,
2220. Há không vui khi được tin lành;
Một thân nhưng chẳng sống riêng mình,
Sống với khắp nhân sinh thế giới.
Hỡi quê nhà rán chung một khối,
Cho hồn kia cảm tới lòng đây;
Trong tâm không để vắng một ngày,
Cùng biết nhớ cùng gây được việc.
Một ngày quên một ngày rất tiếc,
Giữ cho lòng khắng khít nhau luôn;
Vui cùng vui buồn hãy cùng buồn,
2230. Mượn bút mực thay cơn hội ngộ.
Một phen này khai cho nên lộ,
Để thông đường đây đó lại qua;
Ớ nữ nam lớn nhỏ quê nhà,
Khá nghiệm kỹ lời ta vừa nói.
Nơi xa xôi vài lời nhắn gởi,
Tạm gọi là giải nỗi nhớ thương;
Xin chúc lành khắp hết thôn hương,
2238. Khuyên rán giữ vẹn đường đạo đức.
Viết xong tại Đông Kinh
Thanh Sĩ.
(Ấn bản hiệu chính năm 2007)
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Tôi không quên August 15th 2020, 18:07 | |
| Tôi không quên - tkqp1:
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Năm năm dư đã trải qua,
Lòng thương nhau vẫn mặn mà lòng thương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khổ lao dù mấy cũng là,
8. Việc tu khuyên cứ rán mà lo tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xem nhau như thể ruột rà,
Khi ai chạm đến thì là biết đau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đạo mầu lòng vẫn thiết tha,
16. Dù cho thế cuộc dần dà bao lâu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trên đầu có Phật xem qua,
Hiền lương sẽ được gặp nhà hiền lương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc buồn khi có gặp ra,
24. Cùng nhau chia sớt cho qua nỗi buồn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thương nhau như thể một cha,
Cắn hai hột muối chia ra cũng đành.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hãy tin chắc lấy lòng ta,
32. Chớ tin theo lối truyền ngoa của đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Từ tôi xa cách quê nhà,
Phong trần dày dạn ai mà biết cho.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vì tình thương khắp chư gia,
40. Mỗi đêm tôi mỗi chan hòa hột châu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chừng nào thế giới bình hòa,
Mới là ngon bữa mới là ngủ yên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Địa cầu cũng sống như ta,
48. Một khi tuổi nó đã già thì tan.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lòng tôi lòng của trẻ già,
Đôi lòng như một mới là đồng môn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thân đang sống cảnh phồn hoa,
56. Nhưng lòng vắng ngắt như là rừng sâu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mảnh gương chủ nghĩa hảo hòa,
Lúc nào cũng được nêu ra khắp cùng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ngày đêm luống nhớ quê nhà,
64. Đau như ai cắt ruột rà từ manh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bụi trần tấp nập ngày qua,
Ngọc thời vẫn ngọc khó ra bùn lầy.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thân tuy cách trở san hà,
72. Nhưng lòng vẫn được thông qua mỗi ngày.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhiều đêm về viếng quê nhà,
Thức ra nước mắt đượm đà gối chăn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Từ ngày rời khỏi quê nhà,
80. Lệ rơi đọng lại như là biển sông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật còn cảm động lòng ta,
Huống là người ở quê nhà chẳng thương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Kệ kinh xin chớ bỏ qua,
88. Rán xem cho được hiểu ra lý mầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tu hành cho vẹn nết na,
Để không hổ phận con nhà biết tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Luật nghi là cái nền nhà,
96. Phải nên gìn giữ chớ xa ngày nào.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc mình nếu chẳng tốt ra,
Thì không sửa được xấu xa của người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi nào việc quấy nghĩ ra,
104. Hãy nên biết sợ để mà chừa ngay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xử không xong được việc nhà,
Tất nhiên việc nước cũng là không xong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đã sanh ra phận người ta,
112. Ít nhiều gì cũng phải là nên danh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán noi gương tốt ông cha,
Để cho con cháu nhớ ra sau này.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sống cho đáng mặt người ta,
120. Chớ đừng sống lối quỉ ma phá đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thọ ân thì phải nhớ ra,
Chớ đừng quẹt mỏ như gà không nên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bầu trời tuy rộng bao la,
128. Gặp ngày nạn ách thấy ra hẹp hòi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Người ta ai cũng người ta,
Nhưng mà lòng dạ ai mà giống ai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán lo cho được thuận hòa,
136. Đem đời buồn thảm đổi ra vui mừng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đêm nằm xin nhớ nghĩ ra,
Biết hòa là phúc không hòa thì nguy.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sa lầy khó rút chơn ra,
144. Rán theo đường chánh đường tà đừng theo.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hội này Tiên Phật lọc ra,
Nếu sai phương hướng thì là hết trông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đèn không để gió lọt qua,
152. Thì đèn vẫn được sáng loà suốt đêm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trong bùn vẫn giữ mùi hoa,
Tuy nơi thế tục nhưng mà Thần Tiên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Người ta đổi lại Tiên gia,
160. Dễ dàng cũng thể như là trở tay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Giác là Phật mê là ma,
Tự mình xét lấy thì là hiểu ngay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dơ rồi biết rửa sạch ra,
168. Tội mà biết hối thì là tội tiêu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lấy lòng Phật thắng lòng ma,
Ngày nào cũng thế sen tòa được lên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ghét thương rất khó thay là!
176. Xét cho phải chỗ để mà ghét thương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vui buồn trong dạ người ta,
Thường do ngoại cảnh sanh ra phần nhiều.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lấy lời của Phật dạy ra,
184. Để đo việc thế thì là không sai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hớ hênh một chút sát-na,
Đủ làm khổ não người ta suốt đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biết đem tâm trí dùng ra,
192. Người không thể trở nên là hùm lang.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhớ câu Phật vốn là ta,
Cho nên người mới nghĩ ra, Phật tường.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thương người như thể thương ta,
200. Thì lòng oán hận sẽ là không ngơ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trong lòng biết niệm Di Đà,
Thì điều nhơn ái cũng là biết luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tu xương chớ có tu da,
208. Rán làm xin chớ ngồi mà nói không.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có nói ra,
Rằng con ơi! Đạo ngoài da không thành.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lòng thành hơn giá ngọc ngà,
216. Phật Tiên nên được nhờ ta lòng thành.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tuy tôi xa cách trẻ già,
Nhờ lòng thành có mới là cảm thông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật Trời Ngài chẳng bỏ ta,
224. Nếu ta lòng chẳng để xa Phật Trời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đau chơn miệng mới hả ra,
Chừng khi có nạn thì là mới tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thấy mây thì dọn vào nhà,
232 Đừng chờ mưa xuống mới ra khuân đồ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chớ nghi lời Phật mách ra,
Việc nào Phật nói sẽ là có ngay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán tu chớ có bàn ra,
240. Cơ Trời sớm muộn cũng là tới nơi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chấp tay vào ngực của ta,
Ngó ngay chót mũi Di-Đà niệm luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thích Ca chủ cõi Ta bà
248. Nhưng lần này đức Di-Đà độ hơn
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Từ bi rộng lớn hải hà,
Nhưng không cứu được người ta hung sùng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nắm tay nhau chớ rời ra,
256. Đỡ nhau khi té để mà tiến lên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xác tôi còn ở đây mà,
Những lời thề với trẻ già đâu quên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dòng châu lai láng ngày qua,
264. Vì thương đồng đạo trẻ già chờ trông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mỗi khi người ở nước nhà,
Nhớ tôi tôi thấy ruột rà nhói đau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm có tiếng ông già,
272. Bảo rằng lắm kẻ quê nhà nhớ con.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mối tình đã thấm xương da,
Dù đi đâu cũng vẫn là nhớ luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cơ Trời khéo thử người ta
280. Chia tay đôi ngả để mà xem sao?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đôi đàng cùng được nhớ ra,
Ân tình ấy sẽ hơn là vàng cân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rất mong đồng đạo quê nhà,
288. Thương giùm kẻ sống ngàn xa một mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhớ nhau rán niệm Di-Đà,
Cầu xin Phật ở chín tòa độ nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhớ nhau trong việc Phật gia
296. Chớ không nhớ cửa nhớ nhà thế gian
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tim tôi luôn thấy xót xa,
Từ lâu rồi cũng vẫn là đau tim.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mỗi khi tôi nước mắt ra,
304. Bên tai có tiếng bảo là không nên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Anh em lớn nhỏ quê nhà,
Cũng nên bóp bụng cho qua vận thời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chớ quên lời Phật dạy ta,
312. Cá không ăn muối thì là cá ươn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thấy lòng hơn thấy người ta,
Răn mình chưa được chớ la việc người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mặt trời gần mọc sáng ra,
320. Giấc mê chưa tỉnh vẫn là thường khi;
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nụ sanh thì chắc có hoa,
Sao không lo tới lại là muốn ngơ;
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc riêng không mấy thiết tha,
328. Việc chung lòng dạ đầy đà ước mong;
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhiều khi nước mắt cứ ra,
Cũng vì lòng quá lo xa cho đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sơn đầu tiếng một Tiên gia,
336. Rằng sanh mà tử, tử mà còn sanh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trẻ không thì chẳng có già,
Đã già thì chết ấy là xưa nay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tuần huờn hãy nhớ nghĩ ra,
344. Việc không lo sớm muộn là không xong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đồi cao mấy cũng leo qua,
Mức chưa đạt tới thì là còn đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Giàu sang như Sĩ Đạt Ta,
352. Ngài còn chịu khổ để mà lo tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bình thời còn học Thích Ca,
Huống cơn điên đảo sao mà không tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lành phước đến, dữ họa ra,
360. Hãy nên xét kỹ để mà tùng lương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thì giờ chớ bỏ trôi qua,
Nắm tay nhau lại tạo ra phước điền.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đi cho đến hội Long hoa,
368. Bao nhiêu công khó sẽ là đền cho.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đường dài sức ngựa hiểu ra,
Việc lâu biết dạ người ta thế nào.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trồng hoa phải hái được hoa,
376. Tu không đắc đạo thì là không tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thói hư tật xấu chừa ra,
Tu cho chánh đạo mới là thấy linh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chớ đừng mượn lớp áo dà,
384. Lừa người mộ đạo ấy là bất lương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vì nhiều quái vật sắp ra,
Cho nên Tiên Phật mới là kêu tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Diệu huyền sẵn có nơi ta,
392. Bình tâm phản chiếu tất là thấy ngay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Quyết tâm theo chánh bỏ tà,
Dù ai quyến rũ cũng là không theo.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ném quăng các vật Ta bà,
400. Leo thuyền Bát Nhã về mà Tây phương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dứt xong ý nghĩ vạy tà,
Rồi đây trí tuệ sẽ là phát sanh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ngục trần mau phá tung ra,
408. Ngoài trời có các Tiên gia đứng chờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật đem chìa khóa cho ta,
Mau tay mở ngục Ta bà trốn đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Muỗi mòng cắn rứt ngày qua,
416. Sướng vui chi chẳng lánh xa cõi trần?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cùng tôi kết chặt lần ba,
Làm sao thấy Phật Di-Đà mới ưng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi đây xin rán nhớ ra,
424. Để cho hôm sớm được hòa đôi tim.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trong như ngọc trắng như ngà,
Bao năm dày dạn vẫn là kiên trinh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phấn son tô điểm ngày qua,
432. Nhưng không ăn thấm lấy da của mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ta bà chẳng vướng Ta bà,
Đông Kinh mà vẫn ở nhà Việt Nam.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nơi nào đây cũng vào ra,
440. Trong nhà ngoài lộ gió là gió thôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lúc nào cũng vẫn thiết tha,
Đem bầu tâm sự trút ra cho đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không đầu rắn khó bò ra,
448. Không thầy, trò cũng như là mù đui.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nắm tay nhau lại mới là,
Để gìn sự nghiệp công cha lưu truyền.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dù sao cũng cứ hảo hòa,
456. Từ trên chí dưới rán mà nhứt tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bất lành nhất định chừa ra,
Người này không được nhờ mà người kia.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phải nên thương khắp người ta,
464. Lỗi lầm biết nhận thì tha thứ liền.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Làm sao đẹp tợ như hoa,
Ai xem cũng mến ai nghe cũng gần.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chánh chơn cứ mãi làm ra,
472. Thì đâu đến đỗi người ta nhạo cười.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trách mình chớ trách người ta.
Nếu mình không xấu thì là ai chê.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chắp tay nhứt niệm Di-Đà,
480. Lỗi người trăm chuyện lòng ta một lòng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Từ sân ngựa đã chạy ra,
Ăn thua đến mức mới là định phân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi luôn đau đớn ruột rà,
488. Vì câu bĩ thới nước nhà chưa xuôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chết đi không muốn đợi già,
Nhưng vì nợ nước tình nhà còn đây.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tình trên nợ nước tình nhà,
496. Là tình nhơn loại tôi đà nặng mang.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Loài người chưa được bình hòa,
Xác tôi dù bỏ hồn mà chưa đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi từng nguyện với Phật đà,
504. Lời tôi ai được nghe ra đều hiền.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xưa nay tôi đã nhớ ra,
Kiếp nào tôi cũng vẫn là sầu dân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thương tôi thì rán hiền hòa,
512. Để cho tôi bớt ruột rà đớn đau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Con trong lòng mẹ đẻ ra,
Liên quan xác thịt còn là hồn linh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thọ ân thì phải đáp qua,
520. Lo tròn chữ hiếu mới là đáng con.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi đang buồn tủi lắm mà,
Vì tình chưa vẹn nghĩa là cũng chưa.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi từng khuyên nhủ mẹ già,
528. Nên đem tôi để hiến mà cho dân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xác tôi nếu phải nghiền ra,
Cứu đời khỏi bịnh cũng là chịu ngay.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:08 | |
| - tkqp2:
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dám đâu sánh với Thích Ca,
536. Nhưng không để thẹn lời ra của Ngài.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ăn sâu quan niệm lợi tha,
Đời tôi chỉ biết có nhà nhơn dân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chính tôi tôi thật đây mà,
544. Cái tôi của khắp người ta xa gần.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Còn người hung ác sanh ra,
Còn tôi sanh sống để mà khuyên can.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nắng mưa núi chẳng khờn da,
552. Khổ lao tôi cũng vẫn là người tôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thi gan với cuộc phong ba,
Quyết đưa đón khách đến nhà Từ bi
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tay tôi tay của trẻ già,
560. Dù xa đôi nẻo cũng là nắm luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Anh em chỉ mới rát da,
Bên này tôi đã ruột rà thấy đau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nói cười gượng gạo cho qua,
568. Trong lòng luống những xót xa lo buồn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhìn tôi chỉ thấy ngoài da,
Mấy ai soi thấu ruột rà của tôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mỗi ngày ước gặp trẻ già,
576. Để cho mắt đó thấy ra xác này.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tay vừa cầm bút viết ra,
Mắt vừa luỵ nhỏ như là mưa rơi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán tu cho nghiệp nhẹ ra,
584. Để cùng tôi có về nhà Phật Tiên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mảnh gương trước bụi hằng hà,
Gương trong sau trước vẫn là gương trong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đừng cho chúng quỉ lôi ra,
592. Khá ôm cho chặt cột nhà Từ bi .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Làm cho trí huệ sanh ra,
Muốn sanh trí huệ phải là lặng tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chừng tôi trở lại quê nhà,
600. Nhớ đem trí huệ làm trà cho tôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không ham châu báu ngọc ngà,
Tôi ham được có con nhà hiền lương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi không hề có bất hòa,
608. Xin người quê nội rán mà hảo tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi còn thương mến trẻ già,
Trẻ già cũng rán nhớ mà thương tôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đôi đàng nước mắt đồng ra,
616. Bao nhiêu chướng ngại cũng là đẩy trôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Gần đây tôi sẽ về mà,
Mặt nhìn thấy mặt thì là nguôi ngoai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biển non chớn chở bao la,
624. Chỉ trong gang tấc thì là gặp nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Gặp nhau để gỡ rối nhà,
Chớ không phải gặp để mà ăn chơi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tu đi tu ruột tu da,
632. Tu cho loạn lạc đổi ra thái bình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nếu không trên hảo dưới hòa,
Tôi còn gởi xác phương xa chưa về.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không vì trốn nợ đi ra,
640. Mà vì trả nợ mới là xuất dương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không làm lợi ích người ta,
Tôi thề không sống Ta bà này đâu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi chân tôi bước đi ra,
648. Đạp bằng được dốc mới là ưng tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa,
Đau lòng tôi mới nói ra,
Thiêng liêng sứ mạng vẫn là thiêng liêng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ngọc ngà là vẫn ngọc ngà,
656. Dù người đem nó làm ra món gì.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xác này dù có bỏ ra,
Cũng chưa phải bỏ hồn nhà Từ bi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chết cây đem hột gieo ra,
664. Cây này lớn cũng như là cây kia.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đừng buồn đèn bị gió qua,
Tắt rồi đốt lại sẽ là cháy lên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hiện tôi đang khóc đây mà,
672. Khóc thầy xa tớ như gà mồ côi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rượu nồng nhiều lúc mượn ra,
Cho ngơi nỗi thảm cho hòa trời đông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm nghe tiếng Phật đà,
680. Rằng con ơi mọi nỗi nhà tạm nguôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Làm sao có thể nguôi qua,
Ở trong xương tủy việc nhà đã thâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Gỡ xong chuyện rối nước nhà,
688. Bịnh tôi mới được giảm ra ít nhiều.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Độ này thời tiết bất hòa,
Tôi đang nằm bịnh tại nhà ở đây.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một mình lăn lóc thở ra,
696. Tạo công khéo thử chi mà chua cay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bên hè tiếng dế kêu la,
Như than giùm kẻ đàng xa một mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khối tình ôm nặng ngày qua,
704. Nước non ôi có biết mà hay không?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không riêng tình của một nhà,
Mà tình chung của người ta muôn đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lòng tôi van vái ngày qua,
712. Phật ơi xin cứu người ta khổ nàn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Anh em có thấu chẳng là?
Riêng thân này chẳng nệ hà với ai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trời không riêng phủ mình ta,
720. Che cùng vạn vật dù là ở đâu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hiện giờ cũng đã canh ba,
Lưng chưa dính chiếu cũng là vì nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mỗi ngày thường bước chân ra,
728. Dù thân đang bịnh cũng là cứ đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi đang buồn tủi lắm mà !
Buồn đời chưa tỉnh tủi nhà chưa xuôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cùng tôi chớ để rời ra,
736. Giúp tôi cho bớt xót xa tủi buồn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi không khóc lúc mất cha,
Mà tôi khóc việc người ta đã nhiều.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm có tiếng Phật đà,
744. Rằng con ơi bớt chan hòa hột châu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Càng đi càng thấy tới ra,
Dù cho đường có cách xa bao ngàn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chờ tôi chớ vội ngơ ra,
752. Để cùng tôi đến Long Hoa một kỳ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một khi đốt nén hương ra,
Đừng quên hương ấy bay xa khắp cùng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thôn hương lớn nhỏ trẻ già,
760. Đồng lòng cầu nguyện Phật đà động tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vái thầm trong bụng của ta,
Thần Tiên nghe cũng như là sấm vang.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nghèo nàn lăn lóc cho qua,
768. Đường tu nhớ giữ như là khi xưa.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhà nghèo con thảo biết ra,
Nước loàn mới rõ ai là lòng trung.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sảy sàng chịu đựng năm ba,
776. Được nên gạo cội phải là trầy vi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Công dày được quả lớn ra.
Chớ buồn tốn của hay là tốn công.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lần này thi chẳng đâu ra,
784. Hết rồi cái kiếp người ta đương đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc chi khi muốn làm ra,
Nên suy nghĩ kỹ kẻo mà lầm sai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chớ cho tội lỗi phạm ra,
792. Phạm rồi sửa được nhưng mà khó khăn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lời sai chết chẳng nói ra,
Việc sai lợi mấy cũng là từ nan.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhiều khi một tiếng nói ra,
800. Đầu rơi khỏi cổ cửa nhà tan hoang.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vô tình một việc làm ra,
Hại lây muôn mạng vẫn là thường khi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sớm chiều dặn lấy lòng ta,
808. Việc chi cũng phải xét ra mới làm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trồng hoa là để hái hoa,
Tu hành là để nên nhà Phật Tiên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo ra,
816. Con ơi tu chẳng thành là đừng tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Những lời khuyên nhủ trẻ già,
Không riêng tôi nói mà là Phật ban.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đường chơn khi nhận thấy ra,
824. Rán đi cho tột dù là gai chông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biển tâm để nó đục ra,
Cá dù có lội cũng là khó trông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nếu không khổ kiếp người ta,
832. Ai đâu cần bảo ai mà tu thân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Còn nhiều nạn ách xảy ra,
Cho nên mới khuyến người ta làm hiền.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đáo đầu sự thế khít nhà,
840. Không tu chừng đến việc là khó tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Giảng kinh không để ngâm nga,
Để xem cho hiểu đặng mà hồi tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đau lòng tôi biết bao là,
848. Giảng xem nhiều kẻ hiểu ra ít người .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Giới răn cứ mãi bỏ ra,
Xưng mình Phật giáo thì là ai tin.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán lo gìn đạo Thích Ca.
856. Giúp tôi bớt thảm khi ra xứ người .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nước mềm nhiều giọt rơi ra,
Đá dù cứng mấy cũng là mòn hao.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bận tâm chi các việc tà,
864. Nay cười mai khóc há là không kiêng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tại sao Phật có Liên Hoa?
Vì lòng của Phật chẳng sa đắm trần.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Muốn cho đổi kiếp người ta.
872. Việc chi của thế cũng là xem không.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc nào nhơn ái hiền hòa,
Khi nghe thấy đến thì là làm ngay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Quanh mình đầy lũ yêu ma,
880. Lãng tâm một chút thì là bị xô.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trong lòng khi nổi phong ba,
Định tâm vương Phật niệm ra để trừ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tự mình không đủ sức ra,
888. Mượn câu niệm Phật để mà thêm oai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Gần rồi ớ khắp người ta,
Rán leo chút nữa thấy ra sơn đầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật không chọn lựa tài gia,
896. Chỉ tìm những kẻ nào là thật tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dù cho lỗi lạc tài ba,
Cũng trong máy tạo để mà chịu xây.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Oai hùng trên khắp người ta,
904. Nhưng chưa phải thắng được ma trong lòng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phải oai hai mặt mới là,
Thắng ngoài rồi cũng thắng mà được trong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi thân tự chủ được là,
912. Trên đường tu niệm đã qua chín phần.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc đời tập nhiễm hằng hà,
Cho nên việc đạo khó mà nhớ dai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khó tu tu được thành ra,
920. Liên hoa cửu phẩm sẽ là phẩm cao.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thôn lân nam nữ trẻ già,
Biết đời đã mỏng thì là rán tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ngày nào cũng vẫn khuyến ca.
928. Bởi vì cuộc thế cận ra mỗi giờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Càng nhiều khói lửa can qua.
Càng không nên ở xấu xa với người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cũng vì tận thế mà ra,
936. Nhãn tiền quả báo người ta đời này.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc không đáng mấy cũng là,
Nếu điều bất thiện thì xa chớ làm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi ngồi đặt bút viết ra,
944. Bao nhiêu tâm trí để mà vào đây.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đọc đây sẽ rõ lòng ta,
Tuy xa mà vẫn không xa chút nào.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi nào lòng muốn ngơi ra,
952. Hãy mau đọc giảng sẽ là vững tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Buồn riêng tôi có xảy ra,
Nhớ ngay đồng đạo quê nhà thì nguôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo ra,
960. Sầu chung hơn việc riêng ta âu sầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vui chi cái kiếp người ta,
Đeo mang này nọ rồi là bỏ đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật đài nếu được xem ra,
968. Cõi trần sẽ chẳng còn sa đắm vào.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nếu tin lời Phật dạy ra,
Việc chi ở thế cũng là chẳng ham.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật Tiên vô số hằng hà,
976. Xưa nay đâu phải chỉ là một ông.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trong tòa cửu phẩm Liên Hoa
Tu cho tên được ghi mà nơi đây.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Duyên xưa nay mới gặp ra,
984. Không tu duyên ấy sẽ là vô duyên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Há không nhớ lại rừng già,
Ở trong lồng mãi còn ra giống gì.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chớ nên tưởng ngục là nhà,
992. Thật nhà thì chẳng phải là vậy đâu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tâm trần rán gội cho ra,
Vô minh khi hết thì là thấy minh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bổn tâm khi được thấy ra,
1000. Phật đâu cũng thấy lựa là thế gian.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vì còn tưởng nghĩ việc ta,
Cho nên niệm Phật nhiều mà không linh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nên hư đều tự mình ra,
1008. Siêu là nhờ ngộ đọa là vì mê.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vừa lo bổn phận người ta,
Vừa trau đạo hạnh cho hòa cả hai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phận người cư sĩ tại gia,
1016. Vừa là quốc sĩ vừa là Phật nhi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sống riêng là sống thiết tha,
Sống chung là sống an hòa vui tươi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thương người như thể thương ta,
1024. Nếu ai cũng được thế là bình yên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sống trong thời đại hào hoa,
Nếu thêm có đạo đức là quí thay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rất mong khắp cả người ta,
1032. Đặt tình bác ái trong tòa văn minh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đã kêu là giống người ta,
Nếu không nhân cách thì là khó coi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trẻ noi theo chí người già,
1040. Những điều chơn chánh thì là học theo.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lễ nghi là phận người ta,
Đối cùng ai cũng giữ mà lễ nghi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đạo người cần phải biết ra,
1048. Xử sao cho vẹn kẻo mà hổ danh.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:08 | |
| - tkqp3:
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mỗi khi muốn mở lời ra,
Xét coi lời ấy có hòa hay không.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một lời dịu ngọt nói ra,
1056. Bạc tiền chẳng tốn nhiều nhà mến thương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Người ta ba thứ người ta,
Người sao tiền rưỡi người ba mươi đồng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đừng làm nhẹ thể người ta,
1064. Phải năng tô điểm cho ra con người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thật hành chánh đạo Thích Ca,
Hoàn cầu bình tịnh nước nhà ổn yên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biết hay chẳng chịu làm ra,
1072. Cho nên cái kiếp người ta thảm sầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Người không hòa vẫn cứ hòa,
Đã là giác ngộ phải là Từ bi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tạo nên một kẻ thù ra,
1080. Thêm cho mình một sợ lo trong lòng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bạc đen cũng mặc người ta,
Sắc son mình cứ điểm tô lấy mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thuận nhau thì bước dài ra,
1088. Nghịch nhau con lộ sẽ là ngắn đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán làm trí thức mở ra,
Để phân biệt được đâu là giả chơn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đã sanh ra kiếp người ta,
1096. Không riêng trả nợ phải là lập công.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lập công cho khắp người ta,
Công kia sẽ được nhà nhà yêu đương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hiện tôi còn nhớ rõ ra,
1104. Phật rằng tình phải sâu xa với đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nguồn sâu cứ mãi chảy ra,
Tình tôi với khắp người ta kéo dài,
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cũng vì yêu chúng thiết tha,
1112. Hơn năm năm vẫn nhỏ sa không ngừng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi đang ngồi giữa tiệm trà,
Vừa xem thế sự vừa ra đoạn này.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nơi đâu tôi cũng xông pha,
1120. Mà nơi đâu cũng tôi là vẫn tôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tuy là chén rượu ngầy ngà,
Quanh mình chẳng vật chi là đáng say.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhiều khi buộc miệng đùa ra,
1128. Cho khuây nỗi thảm cho qua cơn sầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chị Hằng đâu cũng hiện ra,
Nhưng đời cùng chị vẫn là khác nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm có tiếng ông già,
1136. Con ơi rau muống vốn là vô tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cung thành nếu chẳng trốn ra,
Thì ngôi Phật tổ dễ mà được lên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vật mang nếu chẳng bỏ ra,
1144. Ắt chìm không thể lội qua đến bờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán đi đến núi Phổ Đà,
Cam lồ thỉnh được mới là trường sanh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trong lòng thường nhớ Phật đà,
1152. Bao nhiêu ý tưởng vạy tà đều tan.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Những điều lợi ích người ta,
Rán làm cho được dù là khó khăn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ở ăn phản bội người ta.
1160. Đến chừng khi thác làm ma không đầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phải cho có nết có na,
Bạ làm bạ nói người ta chê cười.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đã là con gái đàn bà,
1168. Lả lơi tánh nết thì là khó coi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cũng thời một tiếng nói ra,
Nhẹ là được mến nặng là bị chê.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nói tu mà chẳng sửa ra,
1176. Nói nhiều càng bị người ta ghét nhiều.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đã là bổn phận mẹ cha,
Dạy con hiểu đạo ấy là đáng khen.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhìn vào kẻ mất nết na,
1184. Mười người hết chín người là trề môi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hoa thơm ong bướm lân la,
Người hiền lớn nhỏ trẻ già vãng lai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Điều nào khiến chúng bất hòa,
1192. Thà câm quyết chẳng nói ra một lời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tháng ngày cứ mãi trôi qua,
Lo sao cho kịp kẻo già hết lo.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lòng quen theo việc vạy tà,
1200. Cho nên hành động thường là bất lương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biết răn trị lấy thân ta,
Thì đâu bị luật của nhà nước răn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Anh em dìu dắt nhau là,
1208. Đời ai dám mở miệng ra chê cười.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một khi hòa thuận trong nhà,
Mới là dạy được người ta ngoài đường.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chừng nào thế giới âu ca,
1216. Con nhà Phật giáo mới là bớt lo.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc dù khó mấy cũng là,
Cố làm sẽ được sao mà lại không.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hiện thời muôn cảnh phồn hoa,
1224. Dễ làm mê tánh người ta háo kỳ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ơ quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mê điều lợi ích khắp nhà,
Chớ mê những việc hại ta hại người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chừng khi thưởng phạt lịnh ra,
1232. Ác nhơn gần Phật cũng là vô phương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xưa nay luật của Trời già,
Không tư không vị dù là với ai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cá hô của đức Phật bà,
1240. Lành thì nó nổi dữ là lặn luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi đang ngóng đợi đây mà,
Cùng người lương thiện dắt ra hội trường.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Giọt dài giọt vắn chảy ra,
1248. Vì xem ít kẻ chịu hòa thuận nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ý nguyền chưa tựu thành ra,
Chết đi cũng thệ nối mà kiếp sau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rừng hoang cây cối rườm rà,
1256. Lửa thiêng một mảy sẽ là phá xong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tội tình muôn kiếp gây ra,
Một ngày cải hối cũng là rửa tiêu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mau lên kẻo trễ kỳ ba,
1264. Cuộc thi này chiếm được là vinh quang.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo ra,
Kỳ này lên được thì là lên luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Có lòng tưởng Phật thiết tha.
1272. Âm thầm Phật độ cho ta công thành.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Muốn cho tà quái dang ra,
Niệm luôn sáu chữ Di-Đà đừng quên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bên sau cuộc sống xa hoa,
1280. Biết bao nhiêu cái oan gia đang chờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biển sầu muốn được thoát ra,
Tấm lòng tham dục phải là trừ xong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phen nầy rán gặp Thích Ca.
1288. Thích Ca cũng muốn gặp mà chúng sanh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhiều đêm Phật ở bên ta,
Suốt canh kể hết nỗi nhà chúng dân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật rằng con dẫu quên ta,
1296. Lòng ta nhớ mãi phiền hà vẫn không.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vẻ hiền của Phật nhìn ta,
Dịu dàng ân ái kể ra sao cùng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sớm làm khắp chốn hảo hòa,
1304. Người nào Phật cũng đến nhà viếng thăm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Anh em một bụng sanh ra,
Há đem bề lưỡi để mà chặt nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Con hư đau dạ mẹ cha,
1312. Trò hư buồn tủi xót xa lòng Thầy.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi mình có việc quấy ra,
Mà không biết thẹn thì là phi nhân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lần này cổi lớp phàm ra,
1320. Được mười phương Phật ban cho phép mầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cứu mình cứu cả mẹ cha,
Việc tu đâu phải như là trò chơi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Muốn người tu mới nói ra,
1328. Chớ đâu muốn nói để mà cười chơi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nghe rồi nên chọn lựa ra,
Mười điều làm được năm ba cũng mừng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lòng tôi luôn ở bên nhà,
1336. Chớ làm hung dữ sát chà lòng tôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Người sầu tôi cũng tha nha,
Tôi đâu sung sướng để mà khổ ai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chậm mau Trời cũng mọc ra,
1344. Đêm không chôn mãi người ta chớ buồn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mới trồng trái chửa trổ ra,
Nóng lòng nhổ bỏ thì là uổng thay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật không nói gạt người ta,
1352. Lập đời việc ấy sẽ ra có ngày.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trách mình chưa sạch lòng tà,
Chớ đừng trách Phật không ra dắt dìu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo là,
1360. Có nhiều La Hán trong nhà chúng sanh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật tâm nếu được thấy ra,
Thì mười phương Phật sẽ là thấy luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ơ quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một ngày không chịu quét ra,
1368. Tất là bụi bặm đầy nhà phải không?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bợn nhơ dù mấy cũng là,
Cố chùi rửa mãi sạch ra như thường.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chơn tình nhà Phật nêu ra,
1376. Kẻo đời không hiểu cho là nhỏ nhoi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đứng trong cửa sổ nhìn ra,
Đâu bằng đứng ở ngoài nhà mà xem.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Định thần cho mở trí ra,
1384. Để xem thấy rộng hiểu xa sự đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mỗi ngày mỗi tháo mở ra,
Trong bao lớp lưới cũng là gỡ xong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chỉ nghe tiếng khóc khổ a!
1392. Đủ làm thức dạ người ta đấy rồi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bên thềm nện bóng ác tà,
Trong lòng thấy đói liệu mà sao đây?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nỗi sầu canh cánh lòng ta,
1400. Riêng mình hiểu lấy thì là đâu ưng
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi tôi nước mắt chảy ra,
Người trong quê nội ruột rà đau chăng?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trên đường đi lại Liên Hoa,
1408. Yêu tinh nhiều chặng hiện ra bất ngờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tề Thiên thước nọ mượn ra,
Đánh tan chúng quỉ để mà tiến lên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Yêu tinh thường giả Phật đà,
1416. Bình tâm xem kỹ kẻo mà lầm sai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sức đời cám dỗ người ta,
Mạnh hơn sức nhẫn mới là ngã lăn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bút không thể tả hết ra,
1424. Nỗi lo của kẻ ngàn xa hiện giờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phía sau của tiếng nói ra,
Biết bao trắc ẩn rán mà vạch soi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
ỞÌ quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Muôn hình thường giả dạng ra,
1432. Hòa cùng muôn thứ người ta hiện thời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nỗi lòng chưa được nguôi qua,
Không vì riêng phận mà là vì dân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đau lòng tôi lắm bá gia,
1440. Mỗi khi nghe thấy ai mà bất minh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trong bàn cờ thế nhìn ra,
Tự nhiên nhớ chuyện nước nhà thêm đau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hòa nhau trăm việc đều hòa,
1448. Chia nhau trăm việc cũng là chia luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đạo không nhân thiện đạo tà,
Dân không ái quốc thì là dân ngu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ăn cơm uống nước quốc gia,
1456. Chớ đi phụng sự người ta ở ngoài.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Những điều tổn hại nước nhà,
Lợi danh dù mấy cũng là tránh đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lấy đông hơn việc riêng ta,
1464. Thì đâu đến đỗi hại ra nhiều người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hiệp nhau tu bổ quốc gia,
Cho dân đủ thóc đủ nhà ở ăn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dân lười nước chẳng mạnh ra,
1472. Nước không đủ mạnh người ta hiếp mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biếng lười nào khác mù lòa,
Không hề tiến kịp người ta bước nào.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Diệu huyền chẳng sớm thấy ra,
1480. Cũng vì lười biếng mà ra phần nhiều.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Anh em lớn nhỏ quê nhà,
Việc nào công ích rán mà siêng năng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Muốn ra sốt sắng đi ra.
1488. Nhờ lòng cương quyết Thích Ca mới thành.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi cần chẳng quyết tâm ra,
Để chừng việc đã trôi qua hết cần.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có nói ra,
1496. Con ơi sốt sắng thì là việc nên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Hương thôn đồng đạo trẻ già,
Phải nên cương quyết như là Phật xưa.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Trái lời Thầy dạy hôm qua,
1504. Nay mai trò ắt gặp ra nạn sầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mẹ cha mang tiếng người ta,
Trăm bề bởi tại con nhà mình hư.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Em hư anh dạy sửa ra,
1512. Đừng làm thinh đứng ngó mà em hư.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Muốn cho ấm áp trong nhà,
Tình huynh nghĩa đệ phải hòa thuận nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xưa nay xáo thịt nồi da,
1520. Vẫn làm bia miệng người ta chê cười.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đau như muối xát ruột rà,
Mỗi khi nhớ lại cảnh nhà chia đôi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cũng vì gạo quỉ tiền ma,
1528. Xúi cho thiên hạ rầy rà lẫn nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phải nên thắng lũ yêu ma,
Chớ cho chúng nó bắt ta làm mồi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo là,
1536. Làm người thua lũ yêu ma hết người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Én còn chỗ ấm tìm ra,
Huống người không kiếm nơi hòa để nương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật dành cho hội Liên Hoa.
1544. Sao không rán đến cổi qua kiếp người .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Có tôi cũng nắm tay ra,
Tôi không hề bỏ ai qua một mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đồng tâm đồng chí đồng hòa,
1552. Nếu như có đọa sẽ là đọa chung.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Anh đau em nước mắt ra,
Vui là đồng hưởng khổ là đồng chia,
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ở đâu làm đó cho hòa,
1560. Đừng thua hoa cúc thơm ra một vùng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Tiên trưởng núi Hoa,
Rằng con Đớm sáng nhưng mà làm thinh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nếu không có bịnh sanh ra,
1568. Thì là thầy thuốc cũng là không luôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lời tôi vừa mới nói ra,
Xét coi lời ấy nghĩa là thế nao?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vì đâu lúa gạo tìm ra,
1576. Phải chăng vì đói hay là vì no?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nếu không khổ cõi Ta bà.
Thì miền Cực lạc Di-Đà tạo chi?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Réo kêu hầu họng rách ra,
1584. Cạn sâu chẳng hiểu mới là đớn đau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xác gầy đưa tiếng khàn ra,
Kêu như thấy ó mẹ gà túc con.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nói nhiều thêm ứa ruột rà,
1592. Nhưng không thể nín vì là tình thương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nằm mê đâu biết cháy nhà,
Thức ra mới thấy hại là dường bao.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhiều khi tôi bắt nghẹn ngào,
1600. Đang đi trên lộ bỗng trào lệ ra,
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tôi đang trằn trọc đây mà,
Ngoài trăng mây phủ như là ghẹo tôi.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:09 | |
| - tkqp4:
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đường xa chẳng ngại cho ta,
1608. Lòng người xa mới khiến ra não nề.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Gió rung bên cội huyên già,
Mỗi lần nhớ đến lòng ta mỗi buồn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cha lú còn chú khôn ra,
1616. Đâu ngu hết cả người ta cười đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi nên một hột gieo ra,
Hái vào mười thúng người ta có thường.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa,
Đừng đừng vội chán bỏ ra,
1624. Người không cày cấy mình ta cũng làm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Khi người cổ thấy khát ra,
Mới hay giá nước cao xa hơn vàng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thà nghèo được bụng người ta,
1632. Hơn giàu mang tiếng con nhà bất nhân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mực tàu cứ nẻ thẳng ra,
Ai buồn cũng chịu khó mà uốn cong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lợi danh thường xúi bất hòa,
1640. Tánh tham bỏ được thì là thuận nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thói hư tật xấu chừa ra,
Đi đâu cũng được người ta kính vì.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo là,
1648. Phải ăn ở tốt mới ra con người .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nói thông nhưng chẵng làm ra,
Việc không nên được còn là bị khinh.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán treo gương tốt trong nhà,
1656. Để cho lớn nhỏ xem qua học đòi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thẹn mình làm nói sai ngoa,
Sai ngoa ấy chẳng phạm ra lần nhì.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tự ta làm chủ được ta,
1664. Mới không bị gạt khi ra trường đời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bền lòng này bớ bá gia,
Chánh thì ít có còn tà thiếu chi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Có mợ thì chợ đông ra,
1672. Không mợ chợ cũng người ta đi nhiều.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thói thường chừng biết tiếc ra,
Việc không trở lại cho ta hai lần.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhắc cho quê nội trẻ già,
1680. Cá sẫy cá lớn rán mà cầm câu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đừng buồn vận xấu quá đa.
Kiên gan có được thì là thành công.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cuộc đời không đổi mới ra,
1688. Thì đâu giục thúc đời ta tu hiền.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không tu vì chẳng xét ra,
Xét ra cho kỹ tất là phải tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo ta,
1696. Nếu không tội lỗi thì là khỏi tu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nếu ai cũng được hiền hòa,
Không cần luật pháp hay là tù lao.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phật rằng sanh kiếp người ta,
1704. Đi lên chẳng khó xuống là dễ hơn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thân người ai cũng thúi tha,
Xét suy cho cạn phải là chán không.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ở trên thân mạng người ta,
1712. Ngàn muôn tai khổ xảy ra rất thường.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Đại nàn chừng nó bùng ra,
Thân người như chuột cháy nhà khác chi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bò rừng quật xác người ta,
1720. Chó lôi xương kẻ làm ma không đầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nắng nồng bông trái không ra,
Khỉ ngồi đến rũ nhìn qua thêm sầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc đời mau tợ chớp ra,
1728. Nhơn vô viễn lự phải là cận ưu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bên tai có tiếng bảo là,
Con ơi việc đến người ta bất ngờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Có nghi tôi cũng đành là,
1736. Lời Thầy lời Phật rán mà tin theo.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mèo kêu như trẻ khóc la,
Nhớ câu nhà sập thì là bìm leo
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Màu cờ đủ thứ trương ra,
1744. Đau lòng cho cảnh người ta giết người .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biết tu còn nạn bảy ba,
Không tu tai ách nói ra sao cùng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rừng hoang vẹt lối đi ra,
1752. Không đi cọp vật đừng la than Trời .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Thật tu không những nạn qua,
Mà còn khỏi nghiệp đọa sa luân hồi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Với ai cũng ở khoan hòa,
1760. Mười người hết chín người ta thương mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Việc đâu còn có đó mà,
Ai thua ai được thấy ra có ngày.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chớ cười khi việc chưa ra,
1768. Việc ra rồi sẽ hoảng la kêu Trời .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một lời đây chép ghi ra,
Nhắn muôn người chẳng phải là riêng ta.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Bớt lòng tự ái riêng ta,
1776. Rán nên tiến đến vị tha tâm hồn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rừng mê biển ái muốn ra,
Nếu không tự quyết thì là khó mong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhiệt thành lòng ấy có ra,
1784. Việc chi to mấy cũng là thành công.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nắng nồng cây dẫu héo ra,
Nếu ra sức tưới sẽ là cây tươi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một điều thường ở người ra,
1792. Thời Trời tuy vậy nhưng ta phải làm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cây to búa cũng bén ra,
Đừng cho chướng ngại làm ta ngã lòng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xứ người hiu quạnh thân ta,
1800. Nhờ lòng của khắp chư gia đỡ buồn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không riêng tôi lắm thiết tha,
Mà người quê nội cũng là buồn chăng?
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo ra,
1808. Con ơi con tủi người ta cũng sầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cùng chung sống cõi Ta bà.
Trí ngu gì cũng vẫn là phàm thân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Người ta biết giúp người ta,
1816. Trong người ta ấy chính là Phật Tiên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ai hung cũng mặc người ta,
Việc hiền mình cứ làm ra mỗi ngày.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dù ai ở quấy cũng là,
1824. Cứ đem việc phải để mà đối cho.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lời nào tôi đã nói ra,
Nếu cho rằng đúng thì là ghi tâm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nằm lòng kệ giảng thi ca,
1832. Để khi buồn có ngâm ra giải sầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chính tôi từ bước chân ra,
Thường hay ngâm vịnh để mà nguôi ngoai.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Vừa ngâm vừa nước mắt ra,
1840. Đời tôi đã biết bao là trớ trêu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán tu đi bớ trẻ già,
Để cho tôi bớt lệ sa ít nhiều.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nước ngoài từ gởi thân ra,
1848. Nhớ nhau chỉ mượn tờ hoa gởi về.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Ước gì khắp hết người ta,
Những lời chơn chánh nhớ ra để làm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chờ cho vận bĩ trôi qua,
1856. Để cùng đồng đạo quê nhà chung vui.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mây sầu cứ mãi giăng ra,
Dù gần nhau cũng khó mà thấy nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Dằn lòng xuống bớ trẻ già,
1864. Trời không nỡ phụ con nhà hiền lương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sớm gần hay chẳng cũng là,
Lòng đây với đó đừng xa đủ rồi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chứa chan từ ở quê nhà,
1872. Chớ đâu phải mới khi ra nước ngoài.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chỉ là không muốn nói ra,
Lòng người đen trắng nào là không hay.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chính ta phải biết lòng ta,
1880. Lòng ta biết được biết ra lòng người.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nhớ cho đến thấy mộng ra,
Mới rằng nhớ ấy sâu xa đáy lòng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Sau khi tỉnh mộng quê nhà,
1888. Nệm chăn ướt át như là mưa tuôn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Toàn dân chưa được hảo hòa,
Giọt châu của kẻ xa nhà còn rơi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Chuyện đời cứ mãi gợi ra,
1896. Người yêu mến đạo dễ mà ngồi yên.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phước không có thể tạo ra,
Thì điều tội cũng phải là đừng gây.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Lòng tôi như cả trẻ già,
1904. Vận thời cũng vẫn trông qua từng giờ.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không nên riêng vái trong nhà,
Hãy nên vái khắp người ta thái bình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Không người tất chẳng có ta,
1912. Rán cùng ai cũng giữ hòa là hơn.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Từ đây người cũng như ta,
Lo nhà lo nước lo cho loài người .
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Con đường Phật đã dọn ra,
1920. Mình đi nên dắt người ta đi cùng.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Treo gương từ ở trong nhà,
Đến nơi ngoài ngõ cũng là treo gương.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Mỗi người mỗi ở tốt ra,
1928. Nhơn dân thế giới ai mà khổ lao.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phần nhiều việc tại mình ra,
Trách mình hơn trách người ta đem vào.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Biết bao đèo ải bước qua,
1936. Đành rằng chơn mỏi nhưng mà đừng lui.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán đi một đỗi nữa mà,
Mức ăn thua đã thấy ra trước đầu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một mình xưa đã đi ra,
1944. Nay không ai cũng vẫn là phải đi.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm Phật có bảo ra,
Người không làm bổn phận ta phải làm.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Nghe chăng lời mới nói ra,
1952. Trẻ già ơi chớ bỏ qua phận mình.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Phận mình cư sĩ tại gia,
Tu Nhân học Phật phải là cho xong.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Một hôm có tiếng ông già,
1960. Rằng con ơi! Phật trong nhà của dân.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Cao sâu ý nghĩa thay là!
Ngàn vàng há dễ mua ra một lời.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Rán suy xét kỹ lời ta,
1968. Đọc đây thêm biết ruột rà của nhau.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Tới đây vừa đúng canh ba.
Muốn thêm ít đoạn nhưng mà dừng câu.
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xin thăm tất cả trẻ già,
1976. Chúc cho ai cũng trạt hà phước duyên.
Viết xong tại Đông Kinh
Thanh Sĩ.
(Ấn Bản Hiệu chính năm 2007)
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: LỜI VÀNG TRONG MỘNG August 15th 2020, 18:11 | |
| LỜI VÀNG TRONG MỘNG - lvtmp1:
Từ phương xa tiếng gà gáy rộ,
Dội vào tai liền mở mắt ra;
Xem giờ vừa đúng canh ba,
Trong lòng liền nhớ lại tòa Kim-Sơn.
Phật dạy phải cất chơn ra thế,
Cứu nhơn-gian khỏi bể ái-hà;
Đường trần đèo ải thẳm xa,
Nạn tai chồng chất quỉ ma dẫy đầy.
Con mạnh tiến đừng phai trí đạo,
Giúp được đời quí báu hơn châu;
Thảng như lâm phải nạn sầu.
12. Khuyên con mật niệm thường câu Di-Đà,
Chẳng những được trừ tà diệt quái,
Còn thoát qua khỏi ải gai chông,
Con đừng hèn nhát nơi lòng,
Tây-Phương có Phật hộ tùng ngày đêm;
Nguyện độ con gieo thêm giống thiện,
Quả Bồ đề được tiến đến nơi;
Phật khuyên con nhớ thêm lời,
Bởi cơ tận diệt người đời quá lanh.
Các thế giới chung quanh trái đất
Vì quả mùi duyên nghiệp đã thâm
Đồng sanh trong cõi tục phàm,
24. Tạo gây lắm việc hung hăng khôn lường.
Tranh lấn nhau tự cường tự bạo,
Đủ phương châm trở tráo khó đo;
“Dò sông dò biển dễ dò,
Mấy ai lấy thước mà đo lòng người”.
Câu nầy rất đúng đời mạt hạ,
Quá hiểm sâu lòng dạ thế gian.
Giết người bằng mọi kế ngoan,
Nghĩa nhơn lánh mặt đạo đàng ngơ tai.
Khắp Âu Á tranh tài đấu sức,
Tạo khí binh ác độc vô ngằn.
Khí hùng càng lúc càng tăng;
36. Tăng cho đến tột đầu săn mới dừng
Trên con đường tách chơn giáo đạo,
Sẽ gặp nhiều gió bão hãi hùng.
Yêu tinh chận đón khắp cùng,
Vậy con lấy kiếm Thư Hùng bảo thân.
Lưỡi kiếm nầy biến phân đủ phép
Con khéo dùng để dẹp tà tông;
Gặp khi yêu dụng hỏa công,
Nhẫn Bồ Đề chú khá hòng niệm ngay.
Hỏa-Vô-Yên-Tinh hay đột xuất
Động nó đều có khắp mọi nơi
Nó hay khêu tức người đời,
48. Bằng câu danh vọng hoặc lời gác cao
Gia trụ con nó vào ra dễ,
Cửa huệ môn nhớ bế cho cần.
Đầu tiên chưa vẹn trí thần;
Đôi khi hờ hỏng nó lần chen vô,
Đạo tâm khá qui mô cẩn mật,
Vững cứng như muôn vách núi đồng;
Sẽ là khỏi phải lo phòng,
Hỏa-Vô-Yên-Quái khó xông phá vào.
Tuy nhiên cũng không sao hết việc.
Còn có nhiều yêu nghiệt khác hơn,
Khắp trong thành thị thôn lân,
60. Tham-Vô-Tận-Quái chúng từng tới lui.
Từ hạng tuổi nên mười nên bảy,
Đến cấp người thành đại thành gia;
Nó thường dùng lấy phép tà,
Làm cho phút chốc mắt lòa như sương.
Nó lừa phỉnh vào đường uế trược,
Mê hồn như bị thuật thôi miên;
Tay luôn ham nắm lấy tiền,
Sát nhơn bội ước không kiêng món gì.
Hạng bần tiện thường khi đạo tặc,
Kẻ phú hào chẳng ngớt tham lam.
Tham-Vô-Tận-Quái khéo làm
72. Người đời như kẻ tục phàm đăng tiên
Từ tim não đến bên tai mắt
Nó thường hay biến các cuộc vui;
Kẻ buồn nó muốn cho nguôi,
Bày trường đổ bát với mùi tửu hoa.
Câu thắng bại khi lòa mắt tục
Tự tay mình khuấy đục giá danh;
Gái không còn trọng tiết trinh,
Ném xuân đổi bạc, gieo tình lấy ngân.
Kể gì lẽ vạn ân nhứt nhựt,
Chỉ biết câu bán tịch thiên kim;
Nó xui những kẻ hữu quyền,
84. Đoạt ngôi cướp nước mưu riêng cho mình.
Khiến cho cả sanh linh đồ thán,
Làm thần sầu người oán khắp nơi;
Nó xui người nỡ giết người,
Để mưu lấy của hoặc lời tặng khen.
Xúi nghèo khó lòng ghen phú hiển,
Mưu hại lừa để chiếm cao sang;
Gớm ghê tên quái Tham Tàn,
Khéo dùng lắm thuật mù loàn nhơn sanh.
Xui vợ nỡ phụ tình chồng khó,
Khiến chồng đem dạ bỏ vợ nghèo;
Xui con đạo hiếu không theo,
96. Riêng thân no ấm rẻ bèo mẹ cha.
Nó lại xúi nồi da xáo thịt,
Giữa gia đình cốt nhục đệ huynh;
Dẫn nhau kiện cáo tù hình,
Bởi tranh ruộng đất vì ganh của tiền.
Con ơi! Nhớ lời khuyên của Phật,
Thứ yêu nầy ác nghiệt vô cùng;
Cổ kim nào bá nào hùng,
Nó đều nắm chắc trong lòng bàn tay.
Cõi thế gian các-đài hoa-lệ,
Nội dung đầy hương quế ướp xông,
Từ ngoài cho đến bên trong,
108. Nó đều giăng bủa lưới chông dẫy đầy.
Con chú ý chớ say đừng nhiễm,
Máng đeo vào mất điểm linh quang,
Khó mong trở lại Niết-Bàn;
Đường về Cực-Lạc nẻo đàng lấp ngăn,
Con nên nhớ cửa tăng thanh đạm,
Thường ăn thô mặc tạm qua thời;
Cho nên dễ móng sự đời,
Tham-Vô-Tận-Quái đợi nơi ngày này.
Nó lần tới thuyết bày đủ lẽ,
Khiến vọng Tăng bác bẻ không ra;
Lần lần tâm loạn mắt lòa,
120. Tấm lòng phán đoán chánh tà mất đi.
Lớp vô minh ngu si phủ tới,
Xô đẩy vào đường lối nhuốc nhơ;
Lạc sai chỉ một đường tơ,
Muôn năm khó phục như xưa được nào.
Vậy con ráng gìn sao cho vẹn,
Phật đang trông thời hạn con về
Tuy rằng nhiệm vụ nặng nề,
Rán thành đạt chớ bỏ bê nửa chừng.
Nghe đến đây ta rưng nước mắt,
Liền chắp tay cúi mặt vâng lời;
Phật rằng: nầy hỡi con ơi,
132. Cõi trần nhằm buổi rốt đời Hạ Nguơn.
Cũng là ngày tạo nhân phải trả,
Như hạn kỳ vay tá đến nơi;
Không phương trì huỡn đổi dời,
Thế nào cũng phải vốn lời trả xong.
Vay một phải trả chồng năm bảy,
Càng dài lâu lời lãi càng to;
Khác gì sạ lúa trồng mơ;
Gieo ra có một hái vô gấp mười.
Thiện ác cả đôi nơi như thế,
Không lầm sai nghiêng trệ mảy nào.
Khắp trong hạ giới trần lao,
144. Ác tâm đã thạnh khí hào đang sung.
Hung thần cũng sanh trong ngũ địa,
Cậy thông minh hội khế ngũ hành;
Vui đùa trong cuộc sát sanh,
Mạng dân như thể chỉ mành treo chuông.
Các La-Hán thập phương thế giới,
Cũng hóa thân vào cõi thế gian;
Không ngừng lời lẽ khuyên can,
Chủ trương đoàn kết khai đàng tồn sanh.
Khuyên vũ khí chiến tranh ác độc,
Đem đổi làm lợi lộc cho người;
Riêng mình riêng nước riêng ngôi,
156. Vung gươm nhả đạn giết người đành ư,
Mạng như tử hình tù một loại;
Sống tợ ngòi pháo cháy mỏng manh,
Chỉ riêng tật bịnh hoành hành,
Đủ làm khổ não nhơn sanh lắm rồi.
Cuộc giết hại nên thôi chớ tạo,
Thương lẫn nhau cơm áo sớt chia;
Đừng đem cửa miệng làm bia,
Ngôn hành phải được nhứt tề mới nên.
Chư La Hán tuy khuyên lắm lẽ
Nhưng đời thường bác bẻ nhiều hơn;
Mây sầu luôn ngút cõi trần,
168. Mắt từ-bi ngắm trăm phần xót xa.
Quả đất như rắn già sắp lột,
Mạng số đời dường bọt nước sông,
Nay mai sẽ hóa thành không.
Vậy con nên sớm lập công buổi này.
Khi con lướt chông gai khuyến thiện,
Hột sen nầy Phật điểm tên con,
Nếu con đạo hạnh vuông tròn;
Hột sen nầy sẽ nở lần thêm ra.
Công đức con ấy là phân nhựa,
Giúp sen nầy được trổ thêm hoa;
Nhược bằng con ngả đường tà,
180. Hoa nầy tức héo như là đốt thiêu.
Sen với con có nhiều quan hệ,
Sức cảm thông đáo để phi thường;
Phật dù ở cõi Tây-Phương,
Ngắm sen tức biết rõ đường con đi.
Phật khuyên con nhớ ghi chặt dạ,
Cành sen nầy đợi quả con nên;
Khi về con sẽ ngồi lên,
Mười phương thường gọi rằng tên Liên-đài.
Vậy con nhớ từ đây sấn bước,
Phí phàm thân cứu vớt gái trai,
Quên khi mưa gió dạn dày;
192. Đem kỳ khắc tạm đổi ngày vĩnh miên.
Kiếm Thư Hùng Phật khuyên thêm nữa,
Con nhớ đeo chớ bữa nào thôi;
Ngoài hai thứ quái kể rồi,
Còn nhiều giống quỉ vô hồi độc sâu.
Thứ gọi Sắc-Vô-Đầu-Thượng-Quỉ,
Nó không phân ngôi vị cấp giai;
Nơi nào nó cũng vãng lai,
Xúi người dâm ái không ngày nào thôi.
Nó biến hóa đủ người đủ dạng,
Ẩn náu trong các hạng gái trai;
Trẻ già chẳng luận một ai,
204. Dễ nằm dưới sự khiến sai quỉ nầy.
Nó thường xúi tôi gây phản chúa,
Vì thông dâm ở giữa cung phi;
Chúa ăn ở lỗi đạo nghì,
Cướp con vợ kẻ hạ ty của mình.
Mê sắc đẹp sát sinh hại mạng,
Khởi đao binh gieo nạn cho dân;
Như người Trụ Kiệt chẳng ngần,
Toàn là lầm kế biến phân quỉ nầy.
Nó luyện được sợi dây phép lạ,
Bực Thần Tiên khó phá chóng mau;
Nếu tâm vọng động trần lao,
216. Nó dùng dây ấy trói nhào như chơi.
Còn đối với hạng người thường tục,
Chúng quỉ nầy trói buộc dễ dàng;
Nó làm tâm trí mê man,
Hết còn phân biệt được đàng giả chân.
Nó bắt phải lo tần lo tảo,
Mưu nọ kia xây tạo các đài,
Sắm sanh quần áo guốc giầy,
Phấn son tô điểm giồi mài khắp thân.
Gây tội ác không ngần không ngại,
Miễn được tiền trang trải nọ kia;
Não đầu đến cực độ mê,
228. Ngày đêm đều chẳng ngớt bề ưu tư.
Vợ lo chồng bị người cướp đoạt,
Phu ngờ thê kẻ khác vãn ve;
Gái trai lòng vẫn ngại e,
Sợ người yêu đổi sang bè khác đi.
Bị chia rẽ hoặc khi bội bạc,
Phát điên cuồng thần sắc kém hao;
Quên ăn mất ngủ tâm bào,
Thuốc men trăm thứ uống vào chẳng tiêu.
Nỗi khổ nầy kể sao cho xiết,
Đều do con nghiệt quỉ đó gây;
Nào ai chẳng biết khổ nầy,
240. Nhưng đâu mấy kẻ đủ tài thắng qua.
Con ơi! Phật xưa đà lắm kiếp,
Bị nó dùng dây phép trói trăng;
Song nhờ Phật sớm hồi quang,
Gươm hùng cắt đứt khổ nàn vượt qua.
Nếu khắp cõi người ta như Phật,
Sắc-Vô-Đầu-Quỉ dắt được nào;
Chơn chơn chánh chánh một màu,
Đời cao luân lý, đạo cao hạnh lành.
Cõi khổ não biến thành Cực-Lạc,
Khắp năm châu chung cuộc thanh bình,
Hết lo đến họa đao binh;
252. Những điều thất tiết phá trinh chẳng còn.
Tuy bảo thế nhưng con khá hiểu,
Nghiệp duyên đời chằng níu từ lâu;
Lo đền có mấy ai đâu,
Cứ gây thêm mãi đậm sâu nhiều người.
Vì lẽ ấy sự đời cứ rối,
Nào oán ân nào mối ghét thương,
Trừ qua cấn lại lắm đường,
Luật nhân quả cứ phán đương mỗi ngày.
Đến khi nào ai ai cũng tỉnh,
Sóng dục làm bình tịnh như nhiên;
Ngày nầy thiên hạ mới yên,
264. Hòa bình không gọi cũng liền hiện ra,
Điều nầy nếu người ta đồng muốn,
Trong khắc thời sẽ hưởng được ngay,
Đoạn nầy ta bỗng thở dài;
Khó làm cho cả nhân loài nhứt tâm,
Phật bảo: chớ lấy làm kinh hãi,
Lòng háo sanh cứ dạy chúng sanh;
Dù không được hết người lành,
Chỉ dìu một kẻ tu hành cũng nên.
Kẻ hữu duyên đã quên căn bổn,
Lo nhắc cho người sớm nhớ ra;
Một người qui hướng Phật gia,
276. Sẽ dìu hết kẻ trong nhà đều tu.
Con ráng lập công phu kỳ chót,
Chớ sanh lòng hoảng hốt đắn đo,
Gặp đường sông biển gay go;
Phật luôn chực sẵn chiếc đò từ-bi,
Con ơi! Đúng ngay kỳ mạt pháp;
Yêu tinh hay lấn áp hiền tăng,
Ít người tùng thiện qui căn;
Phần đông theo thuyết vô thần nhiều hơn.
Xưa tả đạo bàng môn phá Phật,
Nay vô thần mưu dứt giáo tông;
Chấu không chống nổi xe đồng,
288. Phật khuyên con nhớ vững lòng độ dân,
Trời hôn ám dùng thần huệ-chúc (1),
Buổi rối loàn mượn khúc tư-duy;
Phàm nhơn bất luận món gì,
Họ đều lấn cướp không chi răn chừa.
Ra đời khá muối dưa đạm bạc,
Thường tâm vô nhứt vật không tăng,
Tất là khỏi việc lấn ngăn;
Đứng, đi, ngủ, thức, nói, làm tự-do.
Sách kinh dẫu muôn pho chép để,
Cũng không ngoài nơi lẽ ấy đâu;
Vậy con chớ nhọc xa cầu,
300. Muôn điều sẵn có trong bầu tâm linh.
Suốt thâu đêm tự mình soi lấy,
Chí công tìm sẽ thấy mối manh;
Chỉ trong một phút cựa mình,
Bao nhiêu cảnh mộng tan tành còn chi.
Giác với mê chung qui có một,
Khác nào như sóng nước không hai;
Chớ nên vọng chấp bên ngoài,
Hãy dùng trí quán lại ngay trong lòng.
Ngược điều nầy tất không thấy đạo,
Chỉ luống công giúp giáo kẻ thù;
Người đời thường một bữa tu,
312. Năm mười ngày bỏ công phu chẳng cần.
Cũng tự cho là chơn Phật tử,
Đạo cứ tìm trong sử trong kinh,
Không soi lại bổn tánh mình;
Cứ quen như thế mà hành sớm trưa,
Rồi lại trách sao chưa phát huệ;
Đăm nghi ngờ kinh kệ sai ngoa,
Kệ Kinh chỉ hướng cho ta,
Cứ ngồi một chỗ dễ mà tới đâu.
Có giống sẵn không âu trồng tỉa,
Ước mơ suông há dễ được ăn;
Nhìn tay không chịu ngó trăng,
324. Lại đem ý trách cho rằng tối đen.
Đọa trần bởi theo quen lối tục,
Siêu phàm nhờ đi ngược đường duyên;
Đừng màng chúng gọi khùng điên,
Quày đầu tất quả Phật Tiên đắc thành.
Tuy phải dùng thiên kinh vạn pháp,
Vì muốn cho phù hạp tánh căn;
Chung qui có thể nói rằng,
Cũng đồng nghĩa bước ngược đàng trần duyên.
Nghe đến đây, ta liền cúi lạy,
Xin Phật thương chỉ dạy nguồn cơn;
Lành thay con hữu thiện duơn!
336. Phật bèn nói tiếp như nguồn nước trôi.
Con ơi! hiện giữa đời mạt hạ,
Có thứ yêu tên Phá-Thần-Minh;
Nó làm cho kẻ tu hành,
Trong khi thiền tịnh hay sanh tản thần,
Rồi từ đó mê dần đến ngủ;
Tâm hết còn tự chủ được thân,
Sẽ là bị nó dắt lần,
Vào trong cảnh mộng chưa từng thấy ra.
Nào lầu gác treo hoa kết tụi,
Nhiều gái xinh vừa tuổi giắt trâm;
Đứa thì mặc lối khiêu dâm,
348. Đứa thì lõa thể dễ làm say mê.
Chúng áp lại vỗ về quyến rũ,
Lời bướm ong chọc đủ dục tình;
Bất ngờ chỉ một khắc canh,
Tự tay nấu cạn thuốc linh trong lò.
Kẻ tu niệm bị xô vào đấy,
Như bướm sa vào lưới nhện giăng;
Chỉ làm mồi chúng nó ăn,
Nẻo tồn sanh hẹp lại bằng đường tơ.
Thứ yêu nầy từ xưa đã có,
Biết bao người vì nó thối tâm;
Từ Tiên rớt lại cõi phàm,
360. Nhà Tăng hoàn tục không làm chi xong.
Con ơi! Nó vô cùng ác nghiệt,
Trong khi mình chưa được tự do;
Không nên khinh suất hẫng hờ,
Khá phòng như kẻ giữ kho của tiền.
Ấy là bước đầu tiên hành đạo,
Tỏ ngộ rồi tung tháo tự nhiên;
Khi què chân bước chưa yên,
Tự dưng bỏ gậy ngã nghiêng tức thời.
Luật giới vốn là nơi tá túc,
Khá nương theo chớ phút nào rời;
Dù cho mưa nghiệp khắp trời,
372. Không làm ướt át được người trong hiên.
Lời bảo nầy con nên ghi nhớ,
Để ra đời nhắc nhở người ta;
Phá-Thần-Minh thứ yêu ma,
Mỗi khi thấy kẻ tăng già trì trai.
Nó thường xúi nhớ ngay cá thịt,
Bắt thèm thuồng kích thích muốn ăn,
Một khi kém sức nhẫn dằn,
Tự tay trở đũa, luật răn bất cần.
Giờ tịnh niệm hoặc cơn bái sám,
Khiến trong người hôn ám mỏi mê;
Dần-dà đến khắc trễ bê;
384. Hoặc là tụng niệm hơ hê lấy chừng,
Nó có phép hôn thần ám nhãn,
Ai lâm vào cuồng loạn cả tâm;
Mắt xem chẳng biết xiển thâm,
Tai nghe không hiểu đâu lầm đâu không.
Nói cứ nói rắn rồng chẳng hản,
Ý thức mờ như khoảng lê-minh;
Nó là mẹ đẻ tội tình,
Chúng sanh vì nó xuống lên Ta-bà.
Từ muôn kiếp lâu xa trở lại,
Cứ chết rồi liền tái sanh ra;
Trôi lăn trong khúc ái-hà
396. Sình lên xọp xuống kể ra sao cùng.
Việc khổ nạn chất chồng khắp đất,
Không lúc nào người được thảnh thơi,
Bốn mùa không lúc nào rời;
Đông thời lạnh lẽo, Hạ thời nóng oi.
Xuân mưa tạt, Thu trời dông tố,
Giàu nghèo đều thọ khổ như nhau;
Trong khi đói phải ăn vào,
Ăn rồi lại bắt lo nào tiêu ra.
Bao nhiêu đó cũng là thấy khổ,
Huống chi còn tật nọ tật kia;
Xác thân đòi phải trau-tria,
408. Qua cơn ăn uống tới bề mặc mang.
Giàu muốn được cao sang hơn nữa,
Nào các lầu xe ngựa ngọc ngà;
Nghèo thời tần tảo bôn ba,
Lo cơm hai bữa, lo nhà để nương.
Quên hết lúc dầm sương phản mại,
Lấn chen sao cho lại với người;
Đêm ngày nào được rảnh ngơi,
Cứ lo cho đến thở hơi cuối cùng.
Cái khổ nầy há không đáng chán,
Ngoài ra còn nhiều nạn khác hơn;
Cháy nhà hoặc bị nước dâng,
420. Chết thiêu trong lửa bỏ thân dưới triều.
Kẻ đã bị nhà thiêu nước cuốn,
Phủi sạch tay chén muỗng không còn;
Bào hao nào vợ nào con,
Ôm nhau mà khóc chớ còn biết chi.
Khổ nầy há không suy nghĩ tới,
Để lâu rồi mới hối kịp đâu;
Vậy con nhớ rõ từ câu,
Ra đời kể rõ đuôi đầu người nghe.
Kẻ thế-gian thường khoe sung sướng,
Đó là người lầm tưởng đấy thôi;
Một khi thẩm xét cạn rồi,
432. Thấy đời khổ não như ngồi tù lao.
Khổ bịnh hoạn ai nào tránh khỏi,
Đau chỗ nào cũng gọi xốn xang;
Ngày qua là một ngày tàn,
Trẻ rồi già kế bước sang tử kỳ.
Đẹp cho mấy cũng qui lại thổ,
Sang đến đâu chỉ số bá niên;
Ngày đêm tối sáng liền liền,
Mạng như than lửa khó yên trong lò.
Khổ não nói sao cho cùng được,
Người luống công mưu chước trường miên;
Chỉ làm một việc cuồng điên,
444. Có chi tồn tại cho riêng mình dùng.
Vì thân sống người trong hạ giới,
Phí công lao dùng mọi kế ngoan;
Nỡ gây ra lắm tội oan,
Nhưng thân sống chẳng bảo toàn dài lâu.
Chi bằng tạo lấy câu bác ái,
Giúp đỡ nhau bớt cái khổ nàn;
Không làm kẻ trách người than,
Sống trong hành động xóm làng kính yêu.
Lúc bình sanh tiêu diêu vô lự,
Khi tạ trần được ngự cõi thanh;
Được như thế tất an lành,
456. Đông Tây các cuộc tranh giành liền ngưng.
Các Hiền Thánh không cần giảng dạy,
Đời tự nhiên trở lại thiện lương;
Con ơi! Thiệt giả đôi đường,
Ít ai chịu khó suy lường cho ra.
Bị lậm phép của ma ngu độn,
Tự quên đi căn bổn của mình;
Bao nhiêu tâm trí quang-minh,
Trở nên đen tối tợ nhìn hang sâu.
Trong nhà đạo chấp câu vô hữu,
Ngoài trường đời bám sự ngã nhơn;
Nay nhằm thời buổi Hạ Nguơn,
468. Lòng câu nệ gấp mấy lần hơn xưa.
Chỗ nào cũng ghét ưa hai thứ,
Khiến người đời đa sự ưu tư;
Ghét thời tìm cách xa trừ,
Ưa thì lo liệu cho như ý mình.
Nó là gốc để sanh các cuộc,
Bình nó rồi sẽ được an cư;
Con ơi! Nhưng nó khó trừ,
Bởi vì đối cảnh thì người vọng tâm.
Trong lúc ấy đã làm duyên cớ,
Cho thứ nầy xen mó vào trong;
Tự chia ranh giới nơi lòng,
480. Từ đây dẫn đến tụ tòng nghiệp duyên.
Lắm kẻ rõ căn nguyên sự khổ,
Nhưng không lo hối ngộ tu thân;
Ấy vì nghiêng nặng bên trần,
Trong lòng không rảnh để gần Phật gia.
Hạng người ấy khó mà giáo độ,
Bởi kệ cơ với họ xem thường;
Từ bi vẫn sẵn lòng thương,
Nghe không cũng cứ một đường giáo khuyên.
Phật xưa đã tiếp liên nhiều kiếp,
Gánh biết bao tai nghiệp cho người
Thượng căn Phật thí bằng lời,
492. Hạ căn thí của cho người ấm no.
Nhiều lúc tự đem cho con vợ,
Giúp những người cô quả lẻ loi;
Thí thân cho cọp làm mồi,
Thí luôn cả máu cho loài quỉ ma.
Đem não óc để hòa với thuốc,
Cứu cha già trong lúc bịnh nguy;
Nói chung bất luận món gì,
Phật đều không chút tiếc chi với đời.
Việc làm ấy kể thôi vô số,
Gây duyên lành khắp chỗ mọi nơi;
Vua quan dân thứ lắm người,
504. Lánh xa tục lụy đạt ngôi Bồ-Đề.
Cũng lắm kẻ còn mê chưa tỉnh,
Phật không ngừng dùng ánh từ-quang;
Chiếu soi khắp các nẻo đàng,
Phá cơn tăm tối cứu hàng thiện duyên.
Chính con đây đang yên giấc ngủ,
Hóa mộng lành Phật phủ lấy con;
Đem về cho biết Kim-Sơn,
Một phương trong cả muôn phương Phật dùng.
Hơn nữa hiện ở trong thế giới,
Các loài yêu dấy khởi mọi nơi;
Đồng mưu sát hại người đời,
516. Bằng muôn vật quái kể thôi sao cùng.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:13 | |
| - lvtmp2:
Có một việc con không nên trễ,
Hãy nói mau cho kẻ trần hay;
Sớm Đông chiều lội về Tây,
Hai con rắn độc ở ngay trong trần.
Nó đã sống lâu hơn Bàn-Cổ,
Sức lớn không so đọ chi bằng;
Ngày đêm bò lội xung-xăng,
Gặp người gian ác bắt ăn không chừa.
Nay cõi thế gặp cơ tận diệt,
Con quái nầy thêm dịp hành hung;
Dù đem bom lửa súng đồng,
528. Chỉ là chọc giận nơi lòng nó thôi.
Dùng khí giới thêm hơi cho nó,
Hại nhiều người chớ có ích chi;
Bánh xe nhật nguyệt lăn đi,
Tránh sao cho khỏi thời kỳ nầy đâu.
Phật biết rõ đuôi đầu tự sự,
Muốn cho người bỏ dữ về lành,
Rắn dù có lắm gút nanh,
Cũng không sát hại mạng sanh được nào.
Người nghe qua tưởng đâu lời phỉnh,
Gặp nó rồi mới tính sao đây;
Kêu Trời, Trời cũng khoanh tay,
540. Réo Thần, Thần cũng đứng ngoài mà trông.
Hãy liệu trước kẻo không tính kịp,
Đến nước rồi mọi việc giai hưu;
Chuyện nầy ta rất lo ưu,
Đê đầu lạy Phật xin mưu cứu đời.
Phật liền vỗ vào vai nhè nhẹ,
Rồi ung-dung tiếp kể thêm lên;
Nầy con, để dạ đừng quên,
Sau khi thức giấc đem khuyên người đời.
Trước khi cuộc non dời biển đổi,
Chúng sanh trong khắp cõi trần dương;
Đông Tây Nam Bắc bốn phương,
552. Hướng nào cũng nhớ niệm luôn Di-Đà.
Lòng ngày đêm không xa sáu chữ,
Tất sẽ trừ rắn dữ được ngay,
Pháp môn tuy có nhiều thay,
Hạ Nguơn niệm Phật mỗi ngày cũng nên.
Niệm Di-Đà đừng quên hướng thiện,
Thì tai ương tất viễn ly thân;
Chớ nên chờ họa đến gần,
Mới ra công niệm mất phần ứng linh.
Con nhớ khuyên người gìn đức tín,
Lòng thỉ chung nhất định không quên;
Đường xa càng bước càng bền,
564. Như người tìm mẹ lâu niên lạc loài.
Không quản lúc chông gai mưa nắng,
Mẹ khi nào tìm đặng mới thôi;
Tu hành cũng thế con ôi!
Quyết về gặp Phật cùng ngồi toa sen,
Chẳng để phút nào quên tưởng Phật,
Dù xác thân lắm lúc gian lao;
Phật xưa khổ hạnh ngần nào,
Không xiêu ngã mới đứng vào Như Lai.
Xưa Phật cũng mang đai phàm xác,
Như chúng sanh nào khác chi đâu;
Thế mà Phật đạt đạo mầu,
576. Chúng sanh há chẳng tu cầu cho nên.
Trước Phật có vô biên sanh chúng,
Đã chân tu được chứng Niết-Bàn;
Phật không riêng ở Tây-phang,
Mười phương đâu cũng có hàng Như-Lai.
Không khác chi Đông Tây Âu Á,
Nơi nào mà chẳng có người ta;
Nước thì nghèo khổ xấu xa,
Nước thì giàu có lầu tòa vinh vang.
Lấy việc nầy hiểu sang việc khác,
Có chúng sanh thì Phật nào không;
Hãy tin tưởng mạnh nơi lòng,
588. Để cùng chư Phật ngồi chung Liên-đài.
Kể từ đây đến ngày tận thế,
Nơi Liên trì Phật để nhiều hoa;
Chờ người nơi cõi Ta-bà,
Khi sang đây có dùng mà làm chân.
Sự mầu nhiệm vô ngần tột bực,
Toàn là do công đức tương ưng;
Trong hoa tức có thức thần,
Thức thần an trụ chín từng Liên hoa.
Thân sen vàng trong tòa hoa báu,
Cõi thế gian khó tạo cho ra;
Có muôn ánh sáng chói lòa,
600. Càng trông càng bắt sanh ra kính vì.
Trong ánh sáng ẩn vi hương quí,
Rất thơm tho khác dị hơn phàm;
Cõi nầy sao chẳng thích ham,
Lại đem lòng mến thế gian mới kỳ.
Người cõi sen mỗi khi khởi niệm,
Tức ứng ngay theo điểm của mình;
Việc nào cũng rất mầu linh,
Những điều gọi trái ý mình là không.
Muốn nghe nhạc tất trong luồng gió,
Thổi vào cây liền có nhạc nghe;
Thân cây màu sắc trong ve,
612. Phật nào mình muốn tức là hiện ngay.
Kệ cho nghe những bài vô thượng,
Thật ngoài điều tưởng tượng của mình;
Cõi nầy do Phật tạo nên,
Bằng muôn công đức xây trên tu hành.
Những người được thân sanh vào đấy,
Trong lòng không hề thấy chán chê;
Đạo mầu càng lúc say mê,
Như dân nghèo khó được kề nhà vua.
Kẻ dương thế thích ưa châu ngọc,
Giết hại nhau bóc lột liền tay;
Cõi sen châu ngọc làm cây,
624. Bạc vàng làm đất lót đầy khắp nơi.
Giá tuy quí không người giành giựt,
Chẳng một ai thiếu hụt món chi;
Lại thêm tất cả việc gì,
Hễ lòng nếu muốn tức thì có ngay.
Chúng sanh hiện sống ngày lao khổ,
Há không mau đến chỗ báu nầy,
Từ xưa cho đến những nay;
Phật hằng chờ đón không ngày nào ngơ.
Bao lâu Phật cũng chờ đón mời,
Nhưng người đời ít thấy ai sang;
Vì mang nợ thế đa đoan,
636. Không giờ phút rảnh để sang bên này.
Lắm kẻ tính đi ngay cho tới,
Song nửa chừng rẽ lối bỏ đi;
Đã bao nhiêu kiếp diên trì,
Đến nay cũng chửa thấy gì quyết tâm.
Lẽ đạo pháp đành rằng mắc-mỏ,
Nhưng cố tìm tất rõ mối manh;
Quyết tu thì ắt sẽ thành,
Có trồng có hưởng há rằng không ngơ,
Chúng sanh biết bao giờ nhứt niệm;
Cứ để lòng lui tiến liền khi,
Càng làm xót dạ từ bi,
648. Thương đời còn mãi mê ly biển trần.
Tranh lợi danh chia phân thượng hạ,
Không ngày nào trong dạ được yên;
Ít ai sống được bá niên,
Mà lo những việc lâu bền ngàn năm.
Nào khác chi giống tằm làm ổ,
Tự trói mình không chỗ chui ra;
Trong khi chưa chín chưa già,
Bị người đem nấu trong lò nước sôi.
Phật đứng ngoài xem đời mộng mị,
Không cười chê vẫn ý xót thương;
Khi xưa Phật ở trần dương,
660. Lúc chưa ngộ đạo cũng dường thế ni,
Đường của Phật đã đi đã hiểu,
Thương người còn lịu địu chưa xong;
Cứu cho được mới vừa lòng,
Chúng sanh còn khổ vẫn không ưng tình.
Nghe đoạn nầy ta sanh cảm động,
Rồi tự dưng khóc rống to lên;
Nghĩ rằng tâm Phật rộng thênh,
Giúp ngừơi chẳng đợi ai đền trả ân.
Đã nhiều kiếp bỏ thân vì đạo,
Vẫn một lòng chỉ bảo chúng sanh;
Ghét ưa gì cũng mặc tình,
672. Cứ lo tiếp dẫn cứ gìn lòng thương,
Lo như mẹ lo đường con trẻ,
Quên nhọc nhằn chẳng kể nắng sương;
Chúng sanh hữu phước không lường,
Nhờ lời của Phật mở đường mới thông.
Nghĩ đến đâu động lòng đến đó,
Nước mắt càng lụy nhỏ như mưa;
Cúi đầu ta mới liền thưa,
Biết làm sao trả cho vừa Phật ân.
Con xin Phật chỉ phân ráo rốt,
Những điều con quê dốt chưa thông;
Hay thay! Con khéo phát lòng.
684. Dạy con mọi lẽ Phật không tiếc gì,
Hiện giờ con trong khi đang ngủ,
Chơn linh con về trụ Kim-Sơn,
Xác con đang ngọa tại trần,
Nằm như khúc củi thức thần đều không.
Vậy con hãy thử trông lại xác,
Như chết rồi nào khác chi đâu;
Những nào của cải đài lầu,
Những nào trăm thứ sắc màu nọ kia.
Phủi tất cả không hề ngó tới,
Hết còn lo tấn thối sự chi,
Chúng sanh lấy đó mà suy;
696. Chết rồi cũng thế có gì khác đâu.
Muôn việc đến quan khâu là hết,
Nghèo giàu đều chung kết như nhau,
Uổng công lúc sống quơ quào;
Mạng chung tay chẳng nắm vào món chi,
Gây tội chẳng vật gì trường hưởng,
Ấy là người lầm tưởng lớn lao,
Thay vì nghiệp ác chuốc vào;
Nên làm nhơn thiện cho nhiều quí hơn.
Danh được tốt mà ơn cũng có,
Hữu sự ai đành bỏ được mình;
Sống trong cuộc sống an ninh,
708. Không ai đối địch chống kình mà lo.
Được như thế của kho đâu sánh,
Cũng hơn người quyền bính ác gian;
Tử sanh mà có Niết-Bàn.
Khổ lao mà có thanh nhàn là đây.
Đời cứ mãi sống say chết ngủ,
Lên xuống hoài chịu đủ đắng cay;
Mỗi lần người bị bào thai,
Mỗi lần bỏ một xác thây tại trần.
Thây xác ấy nếu dồn chất lại,
Sẽ lấp đầy cả Thái Bình Dương,
Chúng sanh nào biết nào tường;
720. Cứ say đắm mãi trên đường mê ly.
Từ đây còn lần đi tới nữa,
Đến khi nào lò lửa năm châu;
Bùng lên cháy phủ cả đầu,
Chừng ni mới biết việc đâu đã rồi.
Chúng sanh đã nhiều hồi loạn lạc,
Tay bồng con lưng vác hành trang;
Trước đầu lửa cháy đa đoan,
Sau lưng tiếng súng giặc tràn đuổi theo.
Pha lẫn tiếng con kêu khóc mẹ,
Bên đường còn nhiều kẻ thác oan;
Trông vào phách lạc hồn tan,
732. Thấy người rồi bắt nghĩ sang đến mình.
Lúc ấy chỉ mong sanh cho được,
Hết còn lo đến cuộc lợi danh;
Vật chi đổi mạng cũng đành,
Lòng không còn biết tiếc dành món chi.
Cảnh nầy sẽ nhiều khi hơn nữa,
Cuộc thái bình lần lựa chưa xong;
Rộng tâm chớ có hẹp lòng,
Trước sau rồi cũng tay không chớ gì.
Nên làm phải trước khi hữu sự,
Đến nạn rồi bố thí ai khen;
Rèn lòng thanh đạm cho quen,
744. Vật khi phải bỏ, bỏ liền như không.
Con há chẳng biết trong lúc giặc,
Có nhiều người vì tiếc cửa nhà,
Ở lỳ không chịu trốn ra;
Bị người bắt giết biết là bao nhiêu.
Mến của tất chết theo vì của,
Vật không còn thân nọ ra ma;
Người đời chịu khó suy ra,
Tự nhiên thấy rõ đâu là bèo mây.
Trôi theo nước cuốn quây theo gió,
Cứ rày đây mai đó không yên;
Có quyền chẳng giữ đặng quyền,
756. Có tiền không nắm được tiền dài lâu.
Tiền là bạc nó đâu chung thỉ,
Quyền là hành nó cứ đổi thay;
Từ ngàn xưa đến ngày nay,
Tánhngọa hai việc ấy cứ hoài vậy thôi.
Thế mà người cứ xuôi theo nó,
Không chịu tìm đường ngỏ cao hơn;
Món chi ăn mãi cũng lờn,
Ở trần lâu phải chán trần chớ không!
Nay nhằm dịp Tây Đông hữu nạn,
Tất có nhiều người chán đao binh;
Con nên lấy lẽ tu hành,
768. Khuyên người bỏ dữ theo lành từ đây.
Buổi ban sơ chưa khuây việc thế,
Không nên dùng kinh kệ khó khăn;
Chỉ khuyên một ít điều răn,
Gồm thêm trai giới mỗi trăng bốn ngày.
Đem giảng kệ của Thầy con dạy,
Thường đến lui nhắc lại người nghe,
Những điều nào họ còn mê,
Dùng lời dịu ngọt vỗ về khuyên lơn.
Họ chưa hiểu con cần giảng mãi,
Quên mỏi mê đừng ngại công lao;
Nên làm cho họ khát khao,
780. Không nên làm họ ngán ngao nơi lòng.
Phải cẩn thận từ trong lời nói,
Khiến cho người được khởi tâm lành,
Giúp người thêm mạnh đức tin,
Đừng làm cho họ lòng sanh ngọa nghi ngờ.
Đến đâu cũng tùy cơ phổ hóa,
Rung chuông lành thức dạ người mê;
Tai không màng tiếng khen chê,
Miễn là dắt được người về nhà tu.
Độ một người quày đầu hướng thiện,
Công đức to sông biển há bì;
Con nên noi chí từ bi,
792. Ra tay độ thế quản gì riêng thân.
Quí đạo đức nhiều hơn quí của,
Cứu người nguy vui bỏ mạng căn.
Lòng nhân ấy có chi bằng,
Muôn đời ai lại chẳng hằng noi theo.
Ai cũng vẫn biết điều nhân đức,
Không làm vì chưa dứt ngã tâm;
Tự nhiên trong dạ u thâm,
Nhận nhìn những kẻ đã lầm phước duyên.
Kẻ bảo cho mùi thiền thuốc nhựa,
Vì đứng ngoài bệ cửa trông vào;
Những lời xác đáng thâm cao,
804. Không từng đọc tới làm sao được tường.
Hơn nữa chỉ nhắm phường giả đạo,
Mượn ca-sa lừa đảo thế gian;
Tạo ra chùa lớn Phật vàng,
Để cho bá tánh thập phang cúng tiền.
Kệ kinh vẫn tụng liền nơi miệng,
Hỏi nghĩa mầu một biến không thông;
Cứ tranh đồ chúng cho đông,
Hầu nhiều của cải để dùng cho sang.
Ngồi một chỗ lo ăn sung-sướng,
Không hề đem lòng tưởng đến ai;
Chỉ làm giống Phật bề ngoài,
816. Bên trong chẳng một mảy may tương đồng.
Chỉ làm bại hoại trong Phật pháp,
Đâu phải người thiền giác chơn tu;
Hạng nầy như kẻ đui mù,
Tự mình chưa độ còn đâu độ người.
Họ không thể thay lời của Phật,
Phật cũng không nhận việc họ làm;
Nếu ai muốn rõ huyền thâm,
Ngó vào họ ắt sai lầm rất to.
Cửa Phật vốn thơm tho sáng tỏ,
Họ đang tay bôi lọ cho đen;
Khiến cho lắm kẻ xem ngọa hèn,
828. Lầm cho đạo Phật làm phiền người ta.
Đạo Phật có đâu là như thế,
H.y lật xem kinh kệ mà tri;
Phật là vốn tánh từ bi,
Việc lành bất luận điều chi cũng làm.
Từ xã hội bước sang nhân loại,
Chuyện gia đình đến gọi quốc dân;
Nếu là việc hợp nghĩa nhân,
Tự nhiên sốt sắng xuất thân ra làm.
Trước độ mình sau toan độ chúng,
Câu ấy là rất đúng Phật gia;
Đừng lầm ngồi niệm Di-Đa,
840. Mặc ai sống chết không ra giúp vua.
Ngồi niệm mai niệm cho đến chết,
Cũng không thành chi hết mà mong.
Phật là tả đột hữu xong;
Sang Tây cứu thế, qua Đông độ đời.
Chớ đâu có cứ ngồi một chỗ,
Giữ chùa chiền chuông mõ kệ cơ,
Không làm cho kẻ nào nhờ,
Tu hành như thế bao giờ cho nên.
Giúp người chẳng khoe tên ai biết,
Như mẹ cha lo việc cho con,
Chỉ làm bổn nguyện cho tròn;
852. Đâu cần ai đáp đền ơn làm gì.
Nếu ai được hành y như thế,
Tức là người thừa kế Phật ngôi;
Câu nầy ta bắt hỡi ôi!
Biết bao giờ được mỗi người y theo,
Xin Phật hãy cho nhiều Bồ-Tát,
Xuống thế trần ở khắp mọi nơi,
Hóa ra đủ cả hạng người;
Tùy duyên giáo độ cho đời biết tu.
Trước hết phá sạch câu ngã chấp,
Trong Tăng đồ đã tập từ lâu;
Sau lần đến cả năm châu,
864. Khiến người quyền thế quày đầu ăn năn.
Bớt được tánh hung hăng táo bạo,
Cứu dân lành xương máu bớt rơi;
Hiện giờ khắp chốn cùng nơi,
Liệt cường nào cũng chuyên ngòi súng bom.
Xưa giặc giã dùng gươm với nỏ,
Nay chiến tranh cậy có súng bom;
Một lần giết được hằng muôn,
Dữ dằn gấp mấy ngàn lần hơn xưa.
Phật rằng: ấy là cơ tận thế,
Khiến loài người tạo chế thứ hung;
Ấy là tại cái nghiệp chung,
876. Từ lâu nay đã tích tồn lại đây.
Vật tạo lấy sau nầy tự chịu,
Nó sẽ làm kết liễu người đời,
Nó như là loại chim dơi,
Còn người ví tợ trái mùi ngọa trên cây.
Đã thế còn gặp khi giông gió,
Mạng số đâu hưởng thọ dài lâu;
Với câu thiện ác đáo đầu,
Rồi đây bá tánh đâu đâu sẽ tường.
Không riêng con ưu buồn việc ấy,
Phật khắp nơi cũng lấy làm đau;
Thế gian bất luận chỗ nào,
888. Có chư Bồ-Tát kêu gào khuyên răn.
Nhưng ít kẻ qui căn mộ đạo,
Trái lại còn kiêu ngạo nhiều lời;
Làm cho Phật bắt thương ôi!
Cứu căn ngọa không thể cứu rồi số duyên.
Thuốc không uống bịnh thuyên sao được,
Lành chẳng theo cội phước há sanh,
Đến khi quả đất tan tành,
Cũng chưa mấy kẻ giựt mình đâu ư!
Việc nghiệp biết không chờ phải thốt,
Kẻ thế gian ngu dốt làm sao!
Không phân biệt được vàng thau,
900. Trần ai lại mến, đạo mầu thì ngơ.
Trẻ bảo tu hẹn chờ có tuổi,
Già cho rằng chưa rỗi để tu;
Hết Xuân rồi lại đến Thu,
Cứ lần lựa đến khi vào quách quan.
Kẻ làm con ngỗ ngang hung bạo,
Khiến mẹ cha phiền não phát sanh.
Kẻ làm cha mẹ bất lành,
Khiến con bắt chước tạo tành bất lương.
Tội lỗi cứ chằng vương như thế,
Hết đời nầy thừa kế đời sau;
Nghiệp sầu cứ mãi chuyền lao,
912. Chúng sanh biết đến chừng nào rảnh rang.
Nghiệp hoặc (2) cứ tạo mang đầy dẫy,
Sự khổ lao vương lấy đa đoan;
Thấy vầy Phật chẳng ngồi an,
Dời con đến để truyền ban đạo mầu.
Sự thế chẳng còn lâu xa nữa,
Nào thiên tai nào lũ yêu tinh;
Đầy đường chật nẻo đáng kinh,
Chúng sanh vì nó bỏ mình làng khang.
Chúng cậy phép tà làn mắt tục,
Con dùng huyền cơ dẹp tà tông,
Luôn đem lấy ngọn hùng phong,
924. Thổi vừng mây ác phủ trong trần đời.
Làm sáng tỏ nơi ngôi Phật pháp,
Hầu cứu người còn chút thiện căn;
Ngày nào mây ác còn giăng,
Là còn mờ mịt ánh trăng cửa thiền.
Ngoài các quái đã khuyên đoạn trước,
Còn nhiều ma lần lượt kể sau;
Não tim con khá ghi vào,
Để mà tỏ lại người nào chưa hay,
Con ơi! Chính ở ngay hạ giới,
Thứ gọi tên là Ngoại-Nhân-Ma,
Vốn không có cửa có nhà,
936. Thường hay lưu lạc ở mà khắp nơi.
Nó có tánh móc moi tọc mạch,
Hết người nầy đến lượt kẻ kia;
Quê nhà lâu chẳng trở về,
Nó không hề biết đến bề cố hương.
Nó có thuật không nhường ai cả,
Dù thần tiên chưa há thắng qua;
Chúng sanh nơi cõi Ta-bà,
Thường hay bị nó cướp mà tâm linh.
Mắt của nó rất nhanh như chớp,
Liếc xem người ở khắp gần xa;
Người nào đức trọng tài ba,
948. Nó sanh ghen tức sẽ là hại đi.
Hoặc biếm nhẻ khinh khi chỉ trích,
Xúi người đồng công kích không thôi,
Chừng nào hạ được xong rồi,
Lấy làm khoái chí mới nguôi lòng phiền.
Nó có tánh ganh hiền ghét ngõ,
Gặp người tu hay xỏ hay xiên;
Bốn mùa nó chẳng ngồi yên,
Mắt luôn xéo xắt láo liên không ngừng
Ngựơc lại nó cũng từng biếng nhác,
Ỷ lại vào kẻ khác đỡ nâng;
Như mù chỉ động hai chân,
960. Mặc cho người dắt xa gần cũng thây.
Người nào bị nó lây tánh ấy,
Lòng tự tin một mảy không còn;
Trở nên như cái hình nhơn,
Mặc người sai khiến còn phân biệt gì!
Nó lại còn mỗi khi thấy của,
Thì lăm le mưu nọ kế kia;
Làm sao lấy được đem về,
Để riêng thọ hưởng mới hê hả lòng.
Hại mạng người vẫn không ngần ngại,
Miễn góp thâu mò đãy nhiều tiền;
Nó làm nhiều kẻ phát điên,
972. Quên đi sự sống tự quyên thân mình.
Nó gặp người lịch xinh son trẻ
Khởi lòng dâm như kẻ đói cơm;
Không màng trong lúc đêm hôm,
Hiện ra ghẹo chọc bắt nhờm đi thôi.
Khi thì nó dùng lời cám dỗ,
Khi ra oai khủng bố dẫn đi;
Bức cường là việc thường khi,
Nó không biết trọng cái gì là trinh.
Trong chùa miếu đến dinh đến thự,
Vẫn ngang nhiên dở sự dâm ô;
Thường nhơn đến giới tăng đồ,
984. Nó đều đến phá không chừa một ai.
Nó vốn là thính tai thính mắt,
Tiếng thì thầm đến vật dấu che;
Nó đều dòm dõi lóng nghe,
Việc không can cũng tò vè săm soi.
Lời khen tặng nó vui nó thích,
Tiếng chê bai nó ghét nó phiền;
Trong tai nó chẳng hề yên,
Thường hay sạo sự như phiên chợ chiều.
Lúc say sưa nghe điều không rõ,
Nó giận lên như hổ trong rừng;
Việc nghe thấp thố chưa phân,
996. Nó sanh nghi kỵ xa gần đa đoan.
Vì thế đã vu oan lắm kẻ,
Hoặc hại lầm vô số hiền nhơn;
Nó không hề biết xét thân,
Cứ lo hết việc người gần đến xa.
Ngày lẫn đêm vẫn là phóng ý,
Không lúc nào chẳng nghĩ nọ kia;
Hiện giờ nơi cõi trần mê,
Nơi nào cũng có nó kề cận bên.
Thân người tục từ trên tới dưới,
Cả mắt tai mũi lưỡi đâu đâu;
Chỉ trong nháy mắt không lâu,
1008. Thường hay bị nó cướp thâu bất ngờ.
Khi hóa nhỏ mó rờ không gặp,
Lúc biến to trùm khắp trời xanh;
Thế nên tất cả hài hình,
Chỗ nào nó cũng ẩn mình được luôn.
Với những hạng đã suông vào nó,
Chính họ không biết họ đã lầm;
Thành người có miệng như câm,
Có tai như điếc, mắt làm như đui.
Lúc nó vui cũng thời khó chịu,
Khi nó buồn càng nhiễu loạn hơn,
Hình hài nó giống phàm nhân,
1020. Khó đem màu sắc biệt phân được nào.
Vậy con khá khuyên mau bá tánh,
Rán tìm phương để tránh nó đi;
Lâm vào thì ắt khốn nguy,
Đường về Tịnh độ còn gì mà trông.
Kẻ đã vướng khi lòng được biết,
Hãy mau tay tự diệt cho xong;
Niệm câu chú Định Tâm không,
Đuổi ra khỏi xác cho lòng an nhiên.
Trừ nó được chớ riêng tự hưởng,
Hãy mở tâm niệm tưởng đến người,
Khuyên ai chưa được tỉnh hồi;
1032. Để cùng qui ngưỡng nơi ngôi Phật- Đài.
Đừng để lạc vào loài yêu quái,
Hiệp sức nhau đánh bại quỉ ma;
ráng làm cho cõi Ta-bà,
Không còn thấy bóng tinh tà vãng lai.
Xây đắp cõi trần ai mới mẻ,
Có kỷ cương không kẻ lăng loàn;
Từ trên các hạng vua quan,
Đến hàng dân dã biết đàng nghĩa nhân.
Ngoài xã hội xử phân hòa nhã,
Trong gia đình thượng hạ phân minh,
Khắp trong nước chẳng ngục hình,
1044. Chợ quê đâu cũng dân tình hiền lương.
Của rơi chẳng ai màng lượm rớ,
Nhà ngủ không đóng cửa khỏi lo;
Không phường đạo tặc rình mò,
Chẳng ai kiện cáo đôi co rầy-rà.
Khắp nơi được bình hòa thạnh thái,
Như Thuấn-Nghiêu thời đại thuở xưa;
Cơm no áo ấm thãi thừa,
Cõi Tiên đem sánh cũng vừa đi cho.
Trở lại mùi thơm tho thượng cổ,
Ai cũng đều biết tổ biết tông;
Tuy là sống cõi trần hồng,
1056. Mà tâm trong sạch sánh cùng giá gương.
Chúng sanh sống trên giường đau khổ,
Sao lòng không chán bỏ cứ mê,
Chờ khi quỉ bắt hồn về,
Diêm vương phán tội khó bề thở than.
Huống chi cảnh bồng tan sắp tới,
Họa lớn lao thế giới năm châu;
Loài người khắp cả đâu đâu,
Phải qua một cuộc thảm sầu kinh thiên.
Đất động cả trời nghiêng khắp chỗ,
Núi vỡ tan biển nọ thành rừng;
Nơi nầy chịu nạn nước dưng,
1068. Chỗ kia gặp cảnh xa gần lửa phun.
Có nơi gặp thú hung nhiễu hại,
Nhiều tà tinh kỳ quái hiện ra;
Chúng sanh như cội lá già,
Gặp cơn giông tố thật là đáng thương.
Khi yêu quái cang cường đại nộ,
E nhơn sanh không chỗ ẩn nương;
Nó bay nó độn đủ phương,
Lợp trời chật lộ không đường nào đi.
Nó thăng thiên hoặc khi độn thổ,
Hóa mưa dầu nắng lửa hại người;
Nó làm nghiêng đất chói trời,
1080. Hóa nhiều ác thú xé người từ manh.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:15 | |
| - lvtmp3:
Nó phi đao rất nhanh như chớp,
Muôn người trong nháy mắt giết xong;
Ngày nầy sẽ có chẳng không,
Chúng sanh chớ có đem lòng dễ ngươi.
Hãy liên kết khắp nơi như một,
Làm hiền nhân chưởng hột phước duyên;
Nắm tay mở rộng cửa thiền,
A-Di-ĐÀ-Phật niệm liền trong tâm.
Lão ấu thảy đồng làm việc Phật,
Dẹp tà tâm chứa đức từ bi;
Đến ngày biến đổi Nguơn kỳ,
1092. Yêu ma sẽ chẳng làm gì được đâu.
Phép tà đem đối đầu với Phật,
Như lửa kia đem nước tát vào;
Càng làm cho lửa tắt mau,
Hại chi được Phật hùng hào luống công.
Vậy con nhớ khuyên trong sanh chúng,
Đừng để cho ngày lụn tháng qua;
Mau tu chớ hẹn tuổi già,
Đến khi mãn cuộc thì là hết trông.
Chim sa lưới khó mong vùng vẫy,
Cá mắc câu cựa quậy sao ra;
Chớ rằng thế cuộc còn xa,
1104. Thình lình việc tới liệu mà sao kham.
Phật cũng chẳng luận đàm xa xắc,
Nói ngay điều trước mắt mà nghe;
Thân người như sắt trên đe,
Búa Trời nhật nguyệt đánh đè ngày đêm.
Qua một phút chết thêm một phút,
Cứ đi lần đến lúc tắt hơi;
Đâu ngày nào được nghỉ ngơi,
Nếu người hẹn mốt hẹn mơi là lầm.
Chết bất đắc đâu kham niệm Phật,
Già lảng tâm đạo đức sao xong;
Chi bằng trong lúc sự không,
1116. Trì tâm niệm Phật gia công tu hiền.
Không gây cuộc oan khiên mai hậu,
Tránh xa câu nghiệp báo bất lành;
Sớm hôm ăn ở sạch thanh,
Cho lòng giữa Phật cùng mình không xa.
Đời hễ giàu ở nhà cao quí,
Nghèo sống nơi dơ dáy thấp thoi;
Tu hành cũng giống thế thôi,
Huệ sâu đức lớn được ngồi phẩm cao.
Việc tu niệm càng lâu càng quí,
Trải nhiều năm cây cội càng to;
Đừng sờn những lúc gây go,
1128. Không người uốn nắn sao cho nên hình.
Huống lại kẻ làm lành thì ít,
Đứa hung hăng gian ác thì nhiều;
Cố nhiên phải bị ghẹo trêu,
Nếu không chịu nổi phải xiêu theo người
Thiếu đại lực ắt trôi việc lớn.
Không đại hùng khó thắng nguy nan,
Tu như lọc cát tìm vàng;
Việc đâu phải dễ chớ toan ngã lòng.
Trên đồi cao sen không thể mọc,
Sống an nhàn khó học chữ tu.
Sự đời tập nhiễm từ lâu,
1140. Chỉ trong tức khắc dễ đâu bỏ liền.
Việc đã nhớ muốn quên rất khó,
Tập thì mau từ bỏ phải lâu,
Rừng già cây cối lợp đầu,
Chỉ trong một bữa dễ đâu phá rồi.
Những kẻ đã trau giồi đạo đức,
Thảng như chưa sáng được cõi lòng;
Nghĩ rằng còn thiếu đức công,
ráng bồi cho đến huệ thông mới vừa.
Hết sớm lại kế trưa rồi tối,
Ngày giờ luôn thúc hối quần linh,
Mau toan về cõi bất sinh;
1152. Kẻo thần chết đến bên mình hết trông.
Tiếc thì giờ đến không muốn ngủ,
Mê tu hành đến bữa quên ăn;
Chỉ trong một xác làm Tăng,
Đủ siêu tam giới được thăng Liên-đài.
Nếu có kẻ nhanh tay hơn nữa,
Trong nhứt thời bụi rửa sạch không;
Tức là sen được trổ bông,
Tên đề rõ rệt Phật đồng ngợi khen.
Chúng cõi hạ như đèn tim lụn,
Tu như vầy sẽ đúng cách hơn;
Cần nên nhẹ bước nhanh chơn,
1164. Mới mong kịp chuyến đò cơn cuối cùng.
Lần nầy nếu người không hành đạo,
Muôn kiếp sau khổ não vô cùng;
Sanh vào trong cõi mông-lung,
Ngu mê như thú ở rừng hoang-vu.
Không gặp Phật không nghe được pháp,
Đạo không thông việc phước càng mê;
Nạn tai hứng chịu trăm bề,
Biết ngày nào được dựa kề Lạc-bang.
Nay sanh chúng tuy mang thống khổ,
Được nghe lời dạy dỗ kệ kinh;
Khác nào bịnh gặp thuốc linh,
1176. Trong tai-họa có phước lành ẩn nương.
Không nhận đó là đường tồn tại,
Thì Phật đây còn phải nói sao?
Con nên khuyên chúng tu mau;
Đừng chờ nổi cuộc ba đào mới lo.
Muốn qua sông gặp đò đến rước,
Chớ chần chờ hãy bước xuống đi;
Xưa kia đã lắm diên-trì,
Mới trôi lần đến thời kỳ nầy đây.
Từng chịu cuộc tà tây khảo thí,
Bận lắm trò huê mỹ mê hồn;
Há không lấy đó làm khôn,
1188. Muốn cho giải thoát hãy nôn tu hành.
Chốn dạ đài hồn linh tông tổ;
Trông cháu con lớn nhỏ làm hiền,
Hầu lây hưởng chút phước duyên,
Khỏi vòng lao lý thoát miền trầm luân.
Hơn nữa cũng sắp gần Long-Hội,
Các Phật Tiên khắp cõi lập thành;
Ban ơn cho kẻ hiền lành,
Muốn mình cũng được nên danh trong hàng.
Phận con cháu nên toan cho vẹn,
Rán độ mình độ đến tổ tông;
Tu cho đắc quả thành công,
1200. Để làm tông tổ nơi lòng được vui
Nầy con khi thức dậy rồi,
Nhớ đem lời ấy khuyên người đừng quên;
Người đã biết ơn đền nghĩa trả,
Làm việc nào lại há không nên;
Nuôi trong lòng một chữ bền,
Mọi điều chi cũng làm nên như thường.
Việc chi nếu nửa đường lại bỏ,
Dù là điều rất nhỏ cũng hư;
Tu hành cũng giống thế ư,
1210. Không đi đến cuối thì người ra ma.
Lỗi tại người há là tại đạo,
Đừng trách than chớ nhạo không linh;
Linh không thì cũng tại mình,
Gương lau sạch bụi tức hình soi ra.
Biển cứ động thì là nước đục,
Tâm không bình huệ tức không sanh;
Đường bên tay phải Phật hành,
Ngõ nằm phía trái chúng sanh đi hoài.
Đi đến chết mấy thây cũng vậy,
Không bao giờ được thấy Phật đâu;
Hiền lành Phật dạy từ câu
1222. Chúng sanh không chịu lo âu nửa lời.
Khác tư tưởng khác nơi hành động,
Người Niết - Bàn kẻ móng thế gian;
Càng đau đớn khúc đoạn tràng,
Biết chừng nào được hiệp đàng với nhau.
Đoạn nầy khiến ta nhào ra khóc
Cảm Phật ân rồi trách người đời,
Cứ say đắm việc ăn chơi;
Không lòng tin tưởng theo lời từ bi.
Bị tất cả lưới nghi ám ảnh,
Làm tinh thần đạo hạnh nhược suy;
Chẳng gìn ngũ giới tam qui,
1234. Cang thường luân lý bỏ đi không cần,
Chôn thiện tánh trong rừng mê muội,
Lấp đạo căn dưới bụi trần ai;
Riêng thân đã bị đọa đầy,
Còn làm Đức Phật nhiều ngày thương lo.
Nghiệp mê chúng đã to như núi,
Đức huệ con kém cỏi ít oi;
E khuyên họ chẳng nghe lời,
Nhờ ơn Phật lực khiến đời phát tâm.
Phật chận lời liền ngâm bài kệ:
Nước thấm qua cac vật.
Trời soi khắp vạn loai.
Giống gặp mưa liền phát.
Đời loạn đạo nên khai.
Định châu trong được nước.
Sức gió thổi tan mây.
Sắt cứng không đương lửa.
Thú khiếp sư tử oai.
Thuyền không đi trên lộ.
Nên gạo chịu người xay.
Thuốc dùng cho kẻ bịnh.
Đuốc không rọi ban ngày.
Chớ e trời không mọc.
Trong hột có lá cây.
Kệ nghe qua lòng nầy hớn hở,
Như kẻ mù được mở mắt ra;
Thế là trong Phật có ta,
1261. Trong ta có Phật thế mà không hay.
Nghĩ rồi ta chắp tay lạy Phật,
Lòng vô cùng cảm đức của Ngài;
Nguyện đem cái xác mọn nầy,
Gánh đau sầu cứu mê say cho đời.
Đến khi nào hết người khổ não,
Ta mới vui lòng đáo Tây-phang;
Ngày nào còn kẻ khốn nàn,
Ta còn ở thế mở đàng từ bi,
Lời nguyện nầy bỏ đi muôn xác;
Cũng không quên xin Phật chứng miêng,
Hay thay ! Con khéo phát nguyền,
1273. Con cùng sanh chúng lành duyên từ nầy.
Họ nhờ con dứt dây oan nghiệt,
Con do người công đức rộng sâu;
Nhiều người khao khát từ lâu,
Con đem nước tịnh trong bầu nầy đây.
Mau cho họ kẻo dày công đợi,
Sớm chừng nào ích lợi chừng ni;
Cơ duyên nay đã đến kỳ,
Càng không nên để diên trì phút nao.
Huống lại khắp trần lao hiện tại,
Thứ gọi tên là Nội-Ngã-Ma;
Khắp trong thế giới Ta-bà,
1285. Nơi nào nó cũng cửa nhà dựng lên.
Nó rất thích sống trên người thế,
Chỉ biết mình không kể tới ai;
Nó hay bắt vật các loài,
Dù thân thích cũng không hay ân cần.
Tự tạo lấy cho thân riêng hưởng,
Không biết màng tư tưởng lợi tha;
Nó dùng đủ phép yêu ma,
Xây thành đắp lũy gần xa khắp cùng.
Nó ham muốn vốn không bờ bến,
Nghĩ cho thân nghĩ đến vợ con;
Nó không giờ phút ngừng chơn.
1297. Bào hao lo liệu tảo tần ngày đêm,
Nó thường muốn sống êm trên gấm,
Dùng đủ phương xâm chiếm của người,
Kẻ đau khóc, nó vui cười,
Ăn xương uống máu của người rất ưa.
Nó yêu mến không chừa một việc,
Thường mưu mô cướp giết loài người;
Chúng sanh thế kỷ hai mươi,
Cũng vì tại nó chịu đời đắng cay.
Hóa đủ hạng gái trai già trẻ,
Giả vua quan giả kẻ thường dân;
Nhà giàu nó cũng ẩn thân,
1309. Kẻ nghèo nó cũng đến gần không chê.
Thấy của cải nó mê nó đắm,
Mưu lấy đi cho đặng mới thôi;
Ma nào có chút vị ngôi,
Lòng tham ác lại gấp mười thường ma.
Người bị nó trầy da phỏng trán,
Nó khiến sai bất hạng người nào;
Một khi bị nó nhập vào,
Điều chi nó bảo cũng nhào ra đi.
Nó muốn được kẻ qu. người bái,
Thường bày mưu tạo lấy oai danh;
Nó ưa thích việc sát sanh,
1321. Thường đi chiếm lũy phá thành đối phương.
Nó muốn ai cũng nhường nhịn nó,
Hay thét gầm như hổ rừng hoang;
Nó khi được sự giàu sang,
Bắt người nghèo khó làm hàng tớ tôi.
Kẻ trên nó nó soi nó bói,
Hạng dưới tay đánh chửi lung-lăng;
Nhỏ nhoi hơn lũ ruồi lằng,
Món chi nó cũng uống ăn không chừa.
Thấy ai tạm muối dưa nó nhạo,
Bảo rằng không có đạo Phật Tiên.
Dại gì lại phải làm hiền,
1333. Bị người hiếp đáp quí quyền không ngơ.
Nó khuyên hãy theo phò bên nó,
Chẳng những là giàu có cao sang;
Nào là nhiều bạc nhiều vàng,
Còn thêm nhiều thiếp nhiều nàng giúp vui.
Có ca nhạc làm nguôi cơn thảm,
Sẵn rượu ngon rửa đặng lòng sầu;
Hơi nào móng việc đâu đâu,
Nên lo ngay cuộc sang giàu là hơn.
Lũ nó cứ khuyên lơn như thế,
Còn bày ra đủ kế gạt người,
Nó làm cho khắp cõi đời;
1345. Không còn ai biết tu thời mới ưng.
Nó có tánh chê Thần ghét Phật,
Nó thường hay phá phách Tăng đồ;
Giả làm trai đẹp gái tơ,
Khiến cho Tăng chúng ni cô mê hồn.
Khi đã bị thần hôn quỉ ám,
Bỗng trở nên trí loạn tâm mê;
Từ bi lộn ngỏ quên về,
Nghiêng đàng tục lụy theo bề thế gian.
Tự rút nhịp cầu sang Tịnh-độ,
Giong ruổi theo ác lộ tinh ma;
Đạo mầu càng lúc càng xa,
Hết mong cứu vớt như là trứng ung.
Hạng Tăng đồ còn không tránh nổi,
Người thường nhơn chống chọi sao ra;
Dễ làm con cháu quỉ ma,
1357. Càng suy nghĩ tới thì là càng thương.
Kẻ quan quyền lạc đường chúng nó,
Sẽ gây nên tai khổ muôn dân;
Người thường bị nó vấn chân,
Tự làm con vật thiêu thân của mình.
Nó vốn là không hình không bóng,
Lấy xác thân người sống làm thân;
Nếu không dùng chú Hội Thần,
Thì là không thể biệt phân được nào.
Xác người bị nó vào làm chủ,
Sẽ trở nên làm đủ tội mê;
Hết còn biết sự khen chê,
1369. Cứ làm sao được ngỏa nguê ý mình.
Không còn biết đến tình bác ái,
Chẳng cần nghe đạo nghĩa ai phân;
Tội nào cũng buộc vào thân,
Càng làm càng bắt tinh thần say sưa.
Rán ngừa nó như ngừa kẻ địch,
Ngày những đêm thường xét trong tâm;
Nếu như thấy bóng sai lầm,
Mau ngăn lại chớ cho thâm nhập vào.
Lòng tinh tấn giồi trau đạo hạnh,
Cách ở ăn đúng đắn luật nghi;
Việc làm nào cũng nghĩ suy,
1381. Tránh cho khỏi phạm những gì xấu xa;
Trong tâm niệm Di-Đà không dứt,
Miệng nói lời đạo đức thẳng ngay;
Thuyết tà không để vào tai,
Sự mê dù nhỏ cũng hay ngăn trừ
Tập lòng biết thương người hơn của,
Lo ích chung vui bỏ lợi riêng,
Dùng tiền không bị mê tiền;
Cảnh giàu sang chẳng làm điên tâm hồn.
Hữu tình chẳng bị chôn trong sắc,
Có danh không tự đắc lấy danh;
Áo đời tạm mặc vào mình,
1393. Để làm lợi ích nhơn sanh xa gần.
Xác phàm tục tinh thần Bồ-Tát,
Đò luôn đưa bến giác không ngưng;
Sống cho khắp cả chúng dân,
Mỗi điều là mỗi vị nhân mà làm,
Tham nhưng chẳng giống tham thường tục,
Dục mà không phải dục phàm tinh;
Tham nhiều của giúp nhơn sanh,
Tham cho ai cũng ấm lành áo cơm.
Tham đến đỗi điều nhân dù nhỏ,
Cũng vui làm không bỏ trôi qua;
Dục sao cho cõi Ta-bà,
1405. Trở nên Cực-Lạc nhà nhà an cư.
Dục cho mọi người trừ nghiệp dữ,
Lấp xong đường sanh tử luân hồi;
Chừng nào việc ấy thành rồi,
Thì tham dục mới chịu thôi trong lòng.
Được ý niệm sạch trong như thế,
Không bao giờ lầm kế quỉ ma;
Con dùng đạo huệ cao xa,
Độ cho chúng trở nên nhà thiện lương.
Kẻ hiểu đạo soi gương tiến đạo,
Người còn mê được tháo lưới mê;
Mùi thiền thơm nực dường huê,
1417. Trên vui tánh Phật dưới xuê lòng người.
Yêu quái hết dể ngươi khuấy rối,
Tinh tà không cơ hội phá phanh;
Chỉ đem công đức hiền lành,
Đủ làm tà phép tan tành liền khi.
Tà không thể hại gì được chánh,
Như nước càng đập mạnh càng văng;
Khi người hữu đức hữu căn,
Luôn luôn có ánh hào quang khắp mình.
Làm cho mắt tà tinh bị chóa,
Không thể gì xông phá lại gần;
Lúc nào cũng bảo vẹn thân,
1429. Được an thể xác tinh thần cũng an.
Ngược lại kẻ lòng gian tánh xấu,
Dễ làm nơi cơ cấu cho ma;
Khác nào trộm muốn vào nhà
Được người hở cửa tức là vào ngay.
Lộ không kẻ vãng lai dòm ngó,
Tức nhiên là cây cỏ mọc lên;
Trong lòng cứ mãi bỏ quên,
Các điều ác dục nó liền sanh ra.
Rễ chưa mọc diệt đà dễ diệt,
Châm gốc rồi muốn tiệt khó khăn;
Làm sao đừng để ăn năn,
1441. Khỏi đường sanh tử sánh bằng Thần Tiên.
Người thường hay lòng quên ý thức,
Lầm lỗi rồi mới sực nhớ ra;
Chừng ni đã muộn thay là,
Chi bằng xét trước rồi mà làm sau.
Việc nào phải thì mau bước tới,
Điều quấy thì lo thối cho nhanh;
Lo cho thân tộc được lành,
Cũng không quên giúp dân tình hiền lương.
Mở cho mình rộng đường sanh sống,
Lại cũng lo giúp vốn người nghèo;
Gặp ai mắc phải nạn eo,
1453. Ra tay giúp đỡ tùy theo sức mình.
Kẻ lỗi phạm mở tình tha thứ,
Người dốt thời dạy chữ cho thông;
Xử phân rất mực bình công,
Từ ngoài việc chúng đến trong nhà mình.
Trọng lễ phép biết gìn phong hóa,
Không chửi thề không cả rầy la;
Mỗi lời mỗi tiếng nói ra,
Vừa là êm dịu vừa là thẳng ngay.
Giàu sang cũng chẳng hay nịnh bợ,
Nghèo hèn không ruồng bỏ khinh khi;
Ai khen cũng chẳng vui gì,
1465. Ai chê cũng chẳng lấy chi làm phiền.
Gặp người có đức hiền thì học,
Thấy ai còn hung ác thì khuyên;
Tuy là sống chốn đảo điên,
Mà lòng vẫn được lặng yên như thường.
Chẳng bị kẻ buộc vương tội ác,
Thường được làm chủ các việc đời,
Vào ra trong chốn ăn chơi;
Như trăng thu nọ lội bơi trong hồ.
Trăng không bị nhiễm-ô trong nước,
Nước chẳng cầm giữ được bóng trăng;
Tự do đi lại ngày hằng,
1477. Không phiền ai đón ai ngăn được mình.
Sắc chi cũng không chinh được mắt,
Mắt tự do ngắm vật trong ngoài;
Đẹp không vọng niệm mê say,
Xấu không khởi ý chê bai gớm nhờm.
Tiếng chi cũng không làm tai mến,
Tai tự do nghe tiếng dở hay;
Dở không buồn ghét nơi tai,
Hay không buộc phải chuyển lay trong lòng,
Mùi chi cũng chẳng lung được mũi,
Mũi tự do để ngửi các mùi;
Thơm không làm nảy ý vui,
1489. Hôi không thể khiến cho khơi lòng buồn.
Vị chi cũng chẳng sờn được lưỡi,
Lưỡi tự do nếm thử các vì;
Ngon không làm mến ưa chi,
Dở không sanh khởi ý gì chán chê.
Cọ đụng chẳng làm mê thân xác,
Thân tự do đụng các lạnh nồng;
Lạnh nồng không nhiễm được lòng,
Cứng mềm cũng chẳng trói tròng nơi tâm.
Vật chi cũng không làm động ý,
Ý tự do xử trí vật danh;
Giàu nghèo ưa ghét chẳng sanh,
1501. Có không cũng chẳng khiến tình chấp nê.
Cảnh không thể làm mê tâm ý,
Ý tự-do tự trị lấy mình;
Trong sanh tử, vượt tử sanh,
Tuy mang xác tục mà tình Thần Tiên.
Đoạn nầy rất diệu huyền vô tận,
Người Hạ Nguơn nếu đặng dịp nghe,
Sẽ là tỉnh được giấc mê;
Bỏ điều hung ác theo bề thiện lương.
Ta nghĩ thế không lường mừng rỡ,
Như chim lồng được mở cho ra;
Tay liền chắp trước Phật- Đà,
1513. Vừa nghiêng mình lạy vừa là cám ơn.
Nếu Phật chẳng hóa thân dạy dỗ,
Đời khó mong giác ngộ đạo mầu;
Cứ vui theo việc đâu đâu,
Càng đào hố tội lỗi sâu thêm nhiều
Núi dù có bao nhiêu sức nặng,
Cũng không so kịp đặng Phật ơn,
Con nguyền giữ dạ keo sơn,
Đem lời Phật thuyết tỏ phân cho đời.
Bày đạo lý giữa thời hỗn loạn,
Cố nhiên là nhiều đoạn gay-go;
Cúi xin Phật trợ giúp cho,
1525. Khiến an được khách mà đò cũng an.
Phật chận lời bảo rằng chớ ngại,
Phật ban thêm cho gậy Kim-Cang;
Gặp khi yêu quái đón đàng,
Hãy mau lấy gậy đánh tan tức thì.
Gậy chẳng những trị vì yêu quái,
Còn ngăn luôn được loại thú rừng;
Huống là kẻ bạo thường nhân,
Gậy nầy có sức đương ngăn dễ dàng.
Vậy trong lúc lên đàng giảng kệ,
Con nhớ mang chớ để rời xa;
Từ gần cho đến chỗ xa,
1537. Gậy nầy có thể phi ra như thường.
Sắt đá chẳng hề đương kịp nó,
Nó vào trong lửa đỏ như không;
Đập tan núi hóa thành đồng,
Cứng không chi sánh dẻo không gì bằng.
Thảng gặp vật trở ngăn nguy biến,
Dùng gậy nầy linh hiển phi thường;
Yêu tinh chẳng những không đương,
Đến như tà giáo cũng luôn khuất tùng.
Lúc ngủ thức cũng không rời nó,
Quỉ ma không dám mó lại gần;
Đây là gậy phép hộ thân,
1549. Con nên gìn lấy cho cần đừng quên.
Gậy nầy chẳng những riêng con hưởng,
Khi phổ-thông tư tưởng Phật- Đà;
Thảng như gặp kẻ mù lòa,
Gậy nầy con khá đem ra dắt người.
Kẻ già yếu đứng ngồi khó mỏi,
Dùng gậy nầy chống chỏi đỡ nâng;
Hoặc là gặp kẻ què chân,
Con mau dùng lấy gậy thần dẫn đi.
Lúc ăn uống hay khi tiểu tiện,
Hữu sự là dùng đến tự nhiên;
Nơi nào cũng khỏi cữ kiêng,
1561. Như là nước rửa không phiền sạch dơ.
Nhà đạo sĩ không nhờ có gậy,
Chẳng bao giờ tự tại được đâu;
Vậy con chớ dạ lo âu,
Luôn luôn có gậy theo hầu bên con.
Nhận lấy gậy lòng son hớn hở,
Hơn người nghèo được số bạc to;
Thế là ta bớt nỗi lo,
Sớm hôm được có gậy phò bên ta.
Giữa cõi thế nhiều ma với quỉ,
Có gậy nầy ắt trị được ngay,
Ta liền cúi lạy Phật Ngài,
1573. Ơn nầy muôn kiếp không phai được nào.
Từ mặt Phật có hào quang sáng,
Chiếu vào ta rồi phán lời rằng:
Trong đời có lắm ác tăng,
Thấy con có gậy lòng hằng sanh ghen;
Đợi gặp lúc tối đèn tắt lửa,
Hoặc trong khi hớ cửa trống chưn,
Nó vào trộm mất không chừng,
Con nên cẩn thận chớ đừng lẵng lơ.
Kẻ ác tăng đang cơ hưng thạnh,
Mượn cửa thiền làm cảnh giàu sang;
Tục lòng chẳng kém thế gian,
1585. Cũng ưa rượu thịt cũng đàng bướm ong.
Mượn chuỗi hột lòe trong bá tánh,
Đắp cà sa khoé mánh thập phương;
Tùng phe tụ phái lắm đường,
Chúng làm ngược cả kỷ cương nhà thiền.
Tội của chúng ghi đen cả sách,
Ngày rốt đời đủ cách phạt răn;
Chuỗi kia hóa lại xích thằng,
Ngày đêm không ngớt trói trăng nơi mình.
Cà sa nọ đổi thành áo sắt.
Giờ phút nào cũng mặc vào thân,
Thịt xương đau nhức không ngần;
1597. Chịu cho đến lúc tiêu lần đi thôi,
Mang lốt Phật nói lời tà ác,
Miệng trở nên lửa khạc phun ra,
Mắt thì đỏ tợ huyết dà,
Hình hài xấu xí hơn là quỉ yêu.
Thống khổ biết bao nhiêu mà kể,
Thêm uống ăn nhơ uế tanh hôi;
Thấp hèn hơn loại lằng ruồi,
Ai trông cũng bắt trề môi gớm nhờm.
Kẻ dối tu cứ ôm lòng ác,
Con khuyên cho họ giác điều nầy,
Xin đừng mượn tiếng Phương Tây;
1609. Gạt lừa thiên hạ để xây mộng đời.
Hãy ăn ở đúng lời Phật dạy,
Cần trọng tôn luật giái nhà thiền;
Xét chưa dứt đặng trần duyên,
Nên ra ngoài thế chớ nên ở chùa.
Điều nầy khiến ta ngờ liền hỏi?
Ví có người đã lỗi ăn năn,
Sẽ còn được phép làm tăng;
Hay là vẫn loại khỏi hàng thiền gia.
Phật rằng nếu ai mà phạm tội,
Nếu thật lòng cải hối bỏ đi,
Thì là tội nọ còn chi,
1621. Ví như gió lặng tức thì sóng yên.
Từ trong tâm khởi lên hung dữ,
Cũng do tâm sanh sự hiền lành;
Bổn tâm vốn thật không hình,
Bởi duyên theo cảnh sanh tình nọ kia.
Duyên theo ác chịu bề lao khổ,
Duyên theo lành được có phước ân;
Dữ lành nếu chẳng biết phân,
Khác nào cây cỏ thức thần đều không.
Vậy con nhớ khuyên trong sanh chúng,
Lỡ phạm rồi thì cũng ăn năn;
Làm cho bên thiện càng tăng,
1633. Còn bên hung ác ngày càng giảm đi.
Phật ngóng đợi ai qui cửa đạo,
Để ghi tên nơi bảo Liên-Trì;
Để ngày Long-Hội mở thi,
Sẽ cùng các Phật đồng qui một đường.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:16 | |
| - lvtmp4:
Dụng phép nhiệm âm dương biến hóa,
Quyết làm sao cho quả địa cầu;
Trở nên một cõi báu châu,
Không người lao khổ thảm sầu mới ưng.
Ai cũng được hiền nhân đạo đức,
Không có loài quái vật độc trùng;
Hạng người tội lỗi ác hung,
1645. Cho sanh vào cõi bần cùng khác xa.
Con nhớ gọi trẻ già khắp chỗ,
Nếu muốn không bị khổ lâu dài;
Thì là hãy khá tu ngay,
Chớ đừng lần lựa nay mai không rồi.
Bom đạn vẫn chưa thôi chế tạo,
Dân sanh còn điên đảo hết đâu;
Do nhân duyên tạo địa cầu,
Cũng nhân duyên khiến đài lầu tan hoang.
Thế giới đã muôn ngàn lần biến,
Nào phải đâu là chuyến đầu tiên;
Cứ xem cồn vực hiểu liền,
1657. Nổi lên chìm xuống có yên bao giờ.
Cồn vực nhỏ mau cơ biến đổi,
Quả đất to lâu mới thay hình;
Xét ra há chẳng giựt mình,
Đang ngồi trên đám lục bình giữa song.
Người sao chẳng để lòng suy nghiệm,
Tìm hiểu cho được điểm cao thanh;
Biết bao nhiêu cõi hiền lành,
Lâu bền hơn cõi nhơn sanh hiện giờ.
Không đau khổ chẳng cơ giặc giã,
Sống lâu dài không kẻ nghèo hèn;
Nhân lành nhờ đã tạo nên,
1669. Cho nên mới được sanh lên cõi nầy.
Người cũng khá sang ngay bên đó,
Được an nhàn và có phước dư;
Cõi trần ai cũng sầu tư,
Giàu nghèo chẳng có mấy người không lo;
Đời sắp rốt tu cho gấp gấp,
Trễ thời kỳ khó lập công phu,
Một giờ đem đổi muôn thu,
Há không chịu khó lo tu cho thành.
Nghe lời nầy động tình rơi lệ,
Phật thương đời như thế là cùng;
Thật là hữu thỉ hữu chung,
1681. Xưa sao nay vậy không lòng đổi thay.
Cứ thương mãi dù ai có ghét,
Vẫn nhớ hoài cũng mặc người quên;
Nghĩ rồi ta lại khóc lên,
Ơn nầy biết thuở nào đền cho xong.
Phật liền mới ôn tồn khuyên bảo,
Con chớ nên áo não trong lòng;
Con luôn ăn ở sạch trong,
Ấy là con đề đáp xong ân tình.
Phật dụng lành đem lành đáp lại,
Tức nhiên là đạo ngãi tròn vuông;
Khó chi mà phải ưu buồn,
1693. Hãy nên hoan hỷ lo suôn phận mình.
Con rán tập được tình như Phật,
Lòng biết thương vạn vật sanh linh;
Dù ai cay đắng mặc tình,
Cứ lo khuyên dỗ lời lành cho nghe.
Khuyên được kẻ không khoe rằng giỏi,
Người không nghe chẳng khởi lòng hờn;
Không chờ ai đáp đền ơn,
Cứ đem lòng thí không cần phải thâu.
Dạy đến hiểu mau lâu không nệ,
Miễn người tu không kể lao thân;
Dù người gạn hỏi bao lần,
1705. Cũng vui đáp lại không hờn điều chi.
Cứ biện giải đến khi rõ lý,
Nghe cũng vui, khinh bỉ không buồn;
Kệ mầu như suối cứ tuôn,
Chẳng buồn rêu cản, không buồn cỏ ngăn,
Lòng thương chúng không ngằn bờ mé;
Thương người như lòng mẹ thương con,
Cứ lo phận sự cho tròn;
Khổ lao chẳng nệ, mất còn không nao.
Giữ sự lành hơn giàu giữ của,
Cứ săm soi không bữa nào rời;
Lo tu hơn kẻ lo đời,
1717. Ngày đêm chẳng ngớt vun bồi phước duyên.
Đời lo được nhiều tiền nhiều của,
Đạo mong sao nên quả nên công,
Phật không ngớt niệm trong lòng,
Phước không quên tạo khắp trong xóm làng.
Khổ thay đời không than không trách,
Vui trên đường đạo đức sớm khuya;
Xác thân có thể vui lìa,
Nhân lành lòng quyết không hề rời ra.
Thà bỏ mạng không xa chánh đạo,
Trừ tà tâm hơn tảo trừ thù;
Lòng tham của đổi tham tu,
1729. Được như vậy chẳng bao lâu tất thành.
Không thành tại chẳng hành chánh đạo.
Đâu phải do Phật giáo không linh,
Nghề chuyên học tất nghề tinh;
Tâm chuyên niệm Phật tâm linh không lầm.
Câu vạn sự do tâm rất đúng,
Khéo do tâm vụng cũng do tâm;
Thành cù sấu phải chịu nằm,
Muốn soi trăng huệ sóng tâm phải b.nh.
Cứ như thế mà hành chín-chắn,
Dù quả chi cũng đặng chứng thành.
Con nên khuyên nhủ nhơn sanh,
1741. Nếu người nhận phải thì hành mau đi;
Chờ gặp cuộc biến di thương hải,
E cho người hối cải muộn màng;
Rán lo làm phước làm doan,
Để mà được dự hội hàng Phật Tiên.
Có vị từ hoa sen hiện tới,
Có vị từ trong khối mây ra;
Trên hư không bỗng có nhà
Rồi từ trong ấy đi ra nhiều Ngài.
Có vị từ trong cây mà xuất,
Có vị từ dưới đất chun lên;
Núi non lại hóa lầu đền,
1753. Nơi lung trấp bỗng biến nên thị thành.
Trên trời hiện mây lành ngũ sắc,
Lại có luôn ca nhạc Thần Tiên;
Mưa hoa rơi xuống khắp miền,
Cúng dường các bực Thánh Hiền mười phương.
Hào quang chiếu các đường các nẻo,
Có mây lành phủ kéo khắp nơi;
Phật Tiên lộ vẻ vui cười,
Dung nhan đẹp đẽ gấp mười bông hoa.
Do công đức hiện ra nhiều phép,
Sức biến thâu quỉ khiếp thần kinh;
Linh ngoài sức tưởng tượng linh,
1765. Oai không ai dám địch kình nổi oai.
Núi vàng hóa phương Tây hực hỡ,
Lầu ngọc bày chói rỡ hướng Đông;
Lắm người đắc phép lục thông,
Nhiều bà về Phật, lắm ông qui Thần.
Cõi sen hiện chín tầng chín cấp,
Do công tu có thấp có cao;
Có hào quang đủ các màu,
Người già hóa trẻ cùng nhau tươi cười.
Các Phật thuyết nhiều lời bí thẳm,
Khiến nhiều người nghe đặng khai thông;
Lấy làm hoan hỷ nơi lòng,
1777. Nào lời tán thán nào bông cúng dường.
Đâu đâu cũng mùi hương thơm ngát,
Cảm lấy duyên chim hót thanh thao;
Đông Tây bất luận chỗ nào,
Các hoa đều trổ để chào Phật Tiên.
Ngày trời kế đêm liền trăng mọc,
Bốn mùa không lạnh nực tiết thời;
Nhà nhà đều được thảnh thơi,
Không ai đui điếc chẳng người què câm.
Đường không bụi đâu nằm cũng được,
Cây không gai cỏ mướt lại êm;
Ngày hằng chí những về đêm,
1789. Luôn luôn có gió thổi lên nhẹ nhàng.
Nhiều người biết phi đằng rất chóng,
Thường ngao du khắp bốn phương trời;
Cảnh nầy đáng cảnh vui chơi,
Thiệt tân thế giới, thiệt người Thượng-Nguơn.
Ai muốn được để chơn đến đó,
Phải lương hiền đừng có hung hăng;
Quan dân cư xử công bằng,
Việc nhà việc nước ở ăn dung hòa.
Kẻ nhận lỗi thứ tha khoản đãi,
Người đói nghèo cơm vải cấp ban,
Giúp người bịnh những thuốc thang;
1801. Lòng nhân bủa khắp xóm làng gần xa,
Được thế sẽ truông qua cõi trược.
Cảnh Thần Tiên sẽ được sống qua,
Lời nầy của Phật nói ra;
Con đem truyền lại trẻ già được hay,
Ta liền chắp hai tay kính bái,
Xin vâng lời truyền lại nhân gian;
Trên đường phổ biến đạo tràng,
Mong ơn Phật độ cho đàng được xuôi.
Đức đã kém gặp hồi điên bái,
Như thuyền con đem lái biển to;
Nếu không nhờ Phật giúp cho,
1813. Việc ngưng trước cảnh gay go không chừng.
Phật rằng: việc dù ngưng đi nữa,
Cũng nhứt thời rồi sửa lại suôn;
Khuyên con chớ khởi lòng buồn,
Lớp không gay cấn thì tuồng chẳng hay.
Con chớ ngại đức tài non kém,
Độ một người hướng thiện quày đầu;
Đức kia lớn sánh địa cầu,
Giá cao hơn giá bảo châu ngàn lần.
Vậy con hãy tinh thần cứng mạnh,
Xông thuyền ra trước cảnh phong ba;
Cứu người khỏi đắm ái hà,
1825. Trên đầu luôn có Phật- Đà chiếu soi.
Ta vừa được nghe lời Phật thuyết,
Mừng hơn tù được dịp thả ra;
Nguyện từ gần đến chỗ xa,
Nơi nào cũng đến để mà giáo dân.
Nghe cũng tốt không cần cũng mặc,
Vẫn thương yêu lo nhắc nhở thường;
Tiện thì nói trước công đường,
Không thì mượn mực tỏ tường gần xa.
Từ đáy lòng phát ra lời nguyện,
Xin Phật Ngài chứng kiến cho đây;
Phật rằng: duyên ấy lành thay,
1837. Con mau tinh tấn hành ngay ý mình.
Trời còn rọi đạo lành còn tỏ,
Nay nhằm thời Tịnh độ trùng hưng;
Tự nhiên khắp cả chúng dân,
Biết câu lục tự không cần dạy cho.
Họ biết chớ không lo trì niệm,
Vậy con nên khéo khuyến cho người;
Đứng, đi hoặc lúc nằm ngồi,
Di-Đà sáu chữ đừng rời trong tâm.
Thành lòng niệm khỏi lâm tai họa,
Cũng năng trừ được cả yêu tinh;
Đừng ngờ niệm Phật không linh,
1849. Niệm cho đến niệm chí thành thử coi.
Xé được vỏ thì ngòi mới lộ,
Trừ được mê tất ngộ đạo mầu;
Tu hành đừng nệ mau lâu,
Trước sau cũng đắc có đâu sai lầm.
Kế đó Phật liền ngâm bài kệ:
Từ thạch năng hút sắt.
Ngại vật khó giao bôi.
Phật cùng tâm vốn một
Vọng niệm cắt làm đôi.
Khi trừ xong ngại vật.
Từ thạch liền hút sắt.
Vọng niệm dứt đi rồi.
Phật cùng tâm thống nhứt.
Lời Phật kệ tai nghe vừa dứt,
Bỗng nhiên lòng sáng rực thêm ra;
Thế là giữa Phật cùng ta,
1866. Cách nhau vì vọng, gần là vì chơn.
Vọng ấy tức là trần-tâm vọng,
Chơn kia là tức bổn lai chơn;
Thế thì trong xác tạm trần,
Há không vi ẩn Phật thân chăng là.
Liền cúi mặt thưa qua cùng Phật,
Thể theo lời kệ mật vừa qua;
Chúng sanh trong cõi Ta-bà,
Trí, ngu gì có thể là Phật ư?
Phật rằng: vẫn đúng như thế ấy,
Khắp ba ngàn thế giới chúng sanh;
Vọng tâm khi được tịnh thanh,
1878. Trí, ngu đều có thể thành Phật ngay.
Nhưng tâm vọng ít ai dứt được,
Bởi từ lâu nhiễm cuộc hồng trần;
Quen theo mọi vật quanh thân,
Nên khi dứt bỏ trăm phần khó khăn.
Ví như kẻ nhiều năm ghiền nhựa,
Trễ một ngày phát mửa phát đau;
Biết rằng tại hút mà lao,
Có người muốn bỏ không sao bỏ rồi.
Tập thì dễ bỏ thôi rất khó,
Tục thường phân nào có sai đâu;
Tuy là khó bỏ mặc dầu,
1890. Nếu lòng nhứt quyết bỏ sao không rồi.
Hễ tập được bỏ thời cũng được,
Nhẹ thì mau nặng tất hơi lâu;
Miễn người được có một câu:
Việc nào hễ muốn thì âu thật hành.
Được như thế tất thành diệu quả,
Trong nhứt thời đạo cả ắt nên;
Chớ đừng trước thệ sau quên,
Nói vầy làm khác vạn niên không rồi.
Việc đạo lý nói chơi sao được,
Đừng dể ngươi Trời Phật không nên;
Một khi người đã phát nguyền,
1902. Dù sanh dù tử cũng chuyên một lòng.
Con há chẳng hiểu trong dương thế,
Khi có người lập thệ tu hiền;
Thì trong tất cả Phật Tiên,
Đều mừng hơn kẻ được tiền bỏ rơi.
Trái lại cũng vô hồi đau xót,
Khi có người phai lợt đạo mầu;
Lòng nầy sanh chúng biết đâu,
Khi vui nguyện lấy, lúc sầu lại buông.
Nghe lời nầy bắt tuôn nước mắt,
Ta liền quì tay chắp thưa qua:
Lòng từ bi rất sâu xa,
1914. Chúng tu chúng hưởng cũng là mừng cho;
Chúng phụ vẫn thương lo không giận,
Đáng kính thay các đấng từ bi.
Gương nầy muôn kiếp soi ghi,
Cúi xin Đức Phật chứng tri cho lòng.
Phật rằng: lượng khoan hồng nếu có,
Thì tự nhiên tâm nọ được an;
Mối thù oán chẳng buộc ràng,
Việc hờn ghét cũng không mang nơi lòng.
Các Phật lượng khoan hồng thường chứa,
Cứ độ tha không mựa ghét thương;
Nếu con lấy đó làm gương,
1926. Tất là đáng được nối đường Phật gia.
Đối cảnh trần cứ tha không buộc,
Thì nghiệp oan giải được liền khi;
Mắt tha mắt huệ tức thì,
Tai tha tai tỏ lời gì cũng thông.
Thân ý cũng tha không hề buộc,
Thân nhẹ nhàng ý được tịnh minh;
Thứ tha được quả rất lành,
Con nên khuyên thế mở tình biết tha.
Riêng phần con khi ra dắt chúng,
Đối mọi điều thường dụng lòng tha;
Tất là sự chẳng sanh ra,
1938. Đi không ai cản về mà ai ngăn.
Trong lúc phải lóc lăn đây đó,
Gặp đủ người dễ khó tánh tình;
Lòng tha thứ lại cần gìn,
Qua cơn vấn nạn nhạo khinh của người.
Đạo ố đạo trong đời đang thạnh,
Không thứ tha khó tránh đôi co;
Vậy con khá liệu xong lo,
Đừng sai lời Phật dặn dò thiệt hơn.
Ta cúi đầu xin vâng lời giáo,
Miễn sao cho Phật Đạo chấn hưng;
Dù đời thử thách bao lần,
1950. Không làm cho khối tinh thần núng nao.
Khi ngược gió cắm sào đậu lại,
Lúc thuận buồm thuyền chạy đi ngay;
Thân nầy xin hiến Phật Ngài,
Nắng mưa chẳng quản đắng cay đâu sờn.
Phật liền bảo: sau cơn đã thức,
Lời con nguyền với Phật khá ghi;
Cũng như Phật bảo những gì,
Ôm lòng chớ để quên đi lời nào.
Đời đang lúc mưa rào sóng vỗ,
Bát nhã thuyền khá đổ mau ra;
Miễn là cứu được người ta,
1962. Hiểm nguy dẫu mấy cũng là kiên gan,
Khi nghe tiếng rên than của chúng;
Động lòng thương họ cũng như mình,
Điều chi cũng vẫn hy sinh,
Giúp người lâm nạn thỏa tình ước mong.
Chúng sanh hiện sống trong nhà lửa,
Cảnh hãi hùng càng bữa càng tăng;
Nhưng vì tử phược thê thằng,
Vẫn còn say đắm bảo rằng chưa sao.
Muốn cứu họ phải giàu gan mật,
Quyết xông vào kéo dắt họ ra;
Cho hay rằng có ngôi nhà,
1974. Đã xây cất sẵn thật là tốt tươi.
Cố khuyên họ nên rời nhà lửa,
Ngôi nhà kia về ở tự do;
Ngày hằng công việc toan lo,
Muốn chi có nấy ấm no đời đời.
Nhược bằng chẳng chịu rời cho chóng,
Xác hồn kia hóa đống tro tàn;
Riêng thân chẳng được cứu an,
Còn lôi con vợ chung đàng lửa thiêu.
Một người mê khiến nhiều kẻ dốt,
Tội càng lây không ngớt lúc nào;
Gương lành muốn được nêu cao,
1986. Con nên nỗ lực kêu gào bá gia.
Hãy tỉnh giấc Nam Kha cho chóng,
Cải thiện ngay kiếp sống bất bình;
Làm theo lời lẽ trong kinh,
Lúc nào cũng nhớ xét mình không quên.
Nếu tư tưởng khởi lên việc quấy,
Muốn lường ai hoặc lấy của ai;
Tức thì định ý trừ ngay,
Chớ không để lộ ra ngoài hành vi.
Lời nào hễ trước khi muốn nói,
Nếu xét rằng vô lối bất công;
Cũng là ngăn lại cho xong,
1998. Không chờ đã lỡ mới hòng ăn năn.
Còn đối với việc làm cũng vậy,
Trước khi làm phải quấy xét rành;
Sau rồi mới khởi thi hành,
Ngõ hầu tránh việc bất lành xảy ra.
Tưởng, nói, làm cả ba phần việc,
Giờ phút nào cũng xét đến luôn;
Tưởng thanh, nói chánh, làm nhân,
Tuy mang phàm xác nhưng Thần Thánh tâm.
Phật lúc nào cũng thầm mong ước,
Cả chúng sanh ở được như vầy;
Thì là Nam Bắc Đông Tây,
2010. Hết còn lo ngại ai gây oán thù.
Dù kẻ chẳng biết tu theo Phật,
Cũng khá gìn nhân cách loài người;
Giữ cho nề nếp tốt tươi,
Không nên bạ nói bạ cười vô duyên.
Nên giữ đạo Thánh Hiền đã dạy,
Đối xử nhau cho phải nghĩa nhân;
Làm con phải biết hiếu thân,
Quạt nồng đấp lạnh đền ơn sanh thành.
Không trộm cướp chẳng tình gian lận,
Thà sạch trong chịu phận nghèo nàn;
Không lòng phụ khó tham sang,
2022. Ở cho phải đạo tào khang chí tình.
Lúc nào cũng biết gìn chữ tín,
Lời hứa rồi nhứt định không sai;
Mỗi khi chịu nghĩa của ai,
Quyết làm sao đáp được rày mới ưng.
Thi ân chẳng mong ân đáp lại,
Thọ nghĩa thì nghĩa phải lo đền;
Làm dân nợ nước đừng quên,
Gặp cơn nguy biến ra đền đáp ngay.
Nhớ đừng cậy lấy oai thế mạnh,
Hiếp đồng bào trong cảnh lầm than;
Cũng đừng bán chức mua quan,
2034. Xoi hang mạch nước mưu toan bất lành.
Việc mãi quốc cầu vinh phải tránh,
Cần gìn lòng trung tín quốc gia;
Trong khi cầm cán nước nhà,
Hai điều liêm chánh phải là nhớ luôn.
Nên tìm cách giải buồn dân chúng,
Chẩn bần cho kẻ túng cơm tiền;
Lấy nhân trị loạn cho yên
Chủ hòa để có kết liên khắp cùng.
Phải trí thức hóa trong dân chúng,
Mở nhiều trường thông dụng ngữ ngôn;
Nên làm cho chúng dân khôn,
2046. Đừng làm cho chúng cả phồn đều ngu.
Dân khôn tất biết câu quốc thủy,
Dân ngu thì luân lý không màng;
Dễ nghe theo kẻ phiến loàn,
Nổi lên phá cuộc trị an nước nhà.
Chừng ấy mới tính ra sao kịp,
Chi bằng lo trước dịp là hơn;
Còn như bổn phận nữ nhơn,
Chữ trinh là báu của thân khá gìn;
Bên trong của gia đình khéo xử,
Phải rành bề kim chỉ nấu nêm.
Dung nghi cần được đoan nghiêm,
2058. Nằm ngồi đi đứng càng thêm chỉnh tề.
Đừng tập tánh ngồi lê đôi mách,
Đem chuyện người kẻ vạch cho ghen;
Tập lời dịu ngọt cho quen,
Những lời mắng chửi rủa nguyền phải xa.
Làm cha mẹ phải là khuôn mẫu,
Cần tránh xa tật xấu cho con;
Việc mình phải giữ cho tròn,
Tất là sẽ khiến cháu con theo mình.
Con lỡ phạm kêu lên dạy dỗ,
Lẽ nên hư phân tỏ rạch ròi;
Chớ lời thô lỗ khó coi,
2070. Nhứt là tránh việc đòn roi dữ dằn.
Ở cho phải công bằng thẳng thét,
Đừng đứa thương đứa ghét bất công;
Làm cha mẹ ở hai lòng,
Nguyên nhân chia rẽ giữa trong gia đình.
Chừng khi chết xác mình nằm đó,
Con cái lo chia của cắt rui;
Sẽ làm miệng thế chê cười,
Rằng là vô phước cho người mẹ cha.
Việc nào cũng phải là cẩn thận,
Chớ vô tình để hận cháu con;
Phải làm tên khắc bảng son,
2082. Đừng đem danh thể vùi chôn dưới bùn.
Đem hai chữ anh hùng cái thế,
Hoặc là câu trời bể đức ân;
Lấy làm tài sản của thân,
Để cho con cháu hay hơn bạc tiền.
Khắp thành thị đến miền thôn dã,
Lớn nhỏ đều giữ dạ theo đây;
Tất là êm ấm trong ngoài,
Ai tròn phận nấy không ai lỗi nghì.
Nhà an được tất thì nước trị,
Cá nhân hòa tất xã hội minh;
Ví như bức lụa đã thành,
2094. Là do nhiều sợi tơ mành làm nên.
Đạo trung hiếu lo đền xong phận,
Khi mạng chung cũng đặng hiển Thần;
Nếu còn sanh lại cõi trần,
Được con thảo thuận và thân an nhàn.
Điều nầy khá truyền sang khắp chúng,
Nếu nhận cho rằng đúng đạo nhân;
Cũng nên mạnh mẽ tinh thần,
Làm theo chớ có ngại ngần bỏ qua.
Ngày tháng chẳng chờ ta nên nhớ,
Nay chẳng làm mai xở không trôi;
Ta liền khế thủ vâng lời,
2106. Đem điều Phật thuyết lưu dời năm châu.
Người thượng căn khuyên câu Phật pháp,
Kẻ hạ cơ chỉ nết Thánh hiền;
Tùy thời tùy cảnh tùy duyên,
Quyết lòng mở rộng cửa thiền mới ưng.
Thể lời Phật đã phân đoạn trước,
Đời nầy không còn được bao lâu;
Sẽ là biển hóa cồn dâu,
Dân gian khắp chốn thảm sầu như nhau.
Nạn nhân tạo binh đao độc chất,
Nạn yêu tinh bắt vật loài người;
Nạn nhiều ác thú ra đời,
2118. Nạn do thời tiết đổi dời gây nên.
Nạn dưới nước nạn trên mặt đất,
Nửa lưng trời cũng rớt nạn tai,
Trong nhà cho đến chí ngoài;
Nơi nào cũng có nạn tai chực hờ.
Để cho kẻ có cơ hối quá,
Con xin đem đạo cả nhủ khuyên;
Mong nhờ Đức Phật giúp duyên,
Khắp trong hạ giới lòng nguyền tu theo.
Phật rằng: Đời khi eo khi ngặt,
Thì luôn mồm niệm Phật vái Trời;
Nạn tai khi được qua rồi,
2130. Thì mồm niệm Phật vái Trời cũng qua.
Câu hết xôi thì là rồi việc,
Nóng bắt tai nguội biết đâu rờ;
Thật không sai chạy bao giờ,
Lòng người thay đổi bất ngờ lắm con.
Khi con đến gọi nôn đạo đức,
Sẽ nhiều người nô nức chạy theo;
Vì rằng sợ nạn hùm beo,
Vì rằng sợ nạn tinh yêu bắt hồn.
Sợ cả việc trời long đất lở,
Sợ lâm vào bom phá chết oan;
Sợ thân ban trái vương mang,
2142. Sợ lâm ói mửa không an xác trần.
Sợ bị lửa bạo Tần thiêu hủy,
Sợ lâm cơn hồng thủy đại nàn,
Sợ không được gặp hội hàng;
Sợ không được thấy núi vàng Phương Tây.
Sợ chẳng được sống ngày Thượng cổ,
Sợ không còn dịp ngộ Thánh Vương;
Vì rằng lo sợ trăm đường,
Mới là chịu khó dựa nương cửa thiền.
Nếu cuộc thế còn nguyên chưa đổi,
Nạn nọ kia chưa tới đó đây;
Đường tu của họ lần phai,
2154. Lòng hăng hái bỏ trôi dài thời gian.
Họ tự tay bứng ngang gốc thiện,
Xuôi theo loài ong kiến càng lung
Đoàn người hữu thỉ vô chung,
Sẽ làm cửa đạo lạnh lùng chẳng không.
Trên đường con ruổi rong thuyết-pháp,
Phải bình tâm khi gặp cảnh nầy;
Hạng người tỉnh lại rồi say,
Chẳng qua đã lọt vào tay quỉ tà.
Con niệm chú Ma-ha Bát-nhã,
Cứu nạn tai cho kẻ thiếu căn;
Cứ đem đạo pháp thâm hoằng,
2166. Vừa thông nẻo chánh vừa ngăn đường tà.
Chớ thấy kẻ lần xa mối đạo,
Rồi đem lòng áo não ngưng chèo;
Nên nhìn vào hạng khắn keo,
Chớ trông đến kẻ để meo Phật- Đài.
Trong khi lắm kẻ thay đổi chí,
Có nhiều người đạo lý gắng công;
Trước sau ôm chặt một lòng,
Dù lâm nạn khổ cũng không lỗi nguyền.
Hạng người nầy căn duyên sâu thẳm,
Giống từ bi đã rấm nhiều đời;
Tánh kia gần tánh Phật Trời,
2178. Rán thêm chút nữa đạt nơi diệu mầu.
Họ vốn thật lòng cầu đạo pháp,
Con cần nên giải đáp cho tường;
Ngày sau đạo mở rộng đường,
Sẽ nhờ nơi họ tuyên dương phần nhiều.
Đời hiểu lý cao siêu Phật pháp,
Cũng sẽ do họ lập luận ra;
Đáng tôn đáng kính sâu xa,
Đương tiền đáng gọi họ là Phật nhi.
Đạo thường có lúc suy lúc thạnh,
Do lòng người khi tỉnh khi mê;
Gặp thời chánh đạo bỏ bê,
2190. Tức nhiên tà giáo nhứt tề nổi lên.
Gây rối loạn từ trên chí dưới,
Khiến nước nguy, vua tối, dân nghèo;
Khắp nơi nghi ngút khói yêu,
Lòng dân không biết mấy chiều mà đo.
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:17 | |
| - lvtmp5:
Tà giáo mạnh khổ cho chánh đạo,
Kẻ tu hiền bị khảo mềm xương;
Trung cang thường mắc tai ương,
Nịnh hùa lại được hưởng đường vinh vang.
Kẻ hiền tài bị gàn bị trở,
Đứa gian thần được bợ được bưng;
Nạn tai thường đổ cho dân,
2202. Nào sưu thuế nặng nào thân giày bừa
Tạo ra tiền quên mưa quên nắng,
Thường bị người tay chấn lấy đi;
Con ơi! Đạo gặp lúc suy,
Kể sao hết việc quái kỳ xảy ra.
Đời nay cũng giống là như thế,
Đang thời kỳ chánh phế tà hưng;
Phần nhiều trong khắp nhân dân,
Hay tin ma quỉ nhiều hơn Phật Trời
Người chẳng những riêng vời lấy họa,
Còn giục cho nhiều kẻ mang tai;
Có tài lợi dụng tiền tài,
2214. Có oai thì cậy lấy oai hiếp người.
Con cái mê theo lời tà thuyết,
Nỡ xuống tay bắt giết mẹ cha;
Khắp trong châu quận gần xa,
Nơi nào cũng có yêu ma lộng hành.
Có thứ ma tên Khinh-Chúng-Tướng,
Nó rẻ khi phẩm lượng loài người;
Nó mong đạp đổ cõi đời,
Chỉ còn dòng dõi của người nó thôi.
Bất luận ai đang vui hoặc khổ,
Nó cũng đều tật đố ghét vơ;
Xúi làm những việc nhuốc nhơ,
2226. Cho người bắt giết hoặc xô vào tù.
Nó xúi bạn gây thù với bạn,
Nó xúi người đâm chán loài người;
Lấy điều sát hại làm vui,
Nó bày đủ cách cho đời hại nhau.
Kẻ thất tình xúi mau tự tử,
Người sa cơ cứ bảo sát thân;
Nhà tu nó xúi yếm trần,
Bảo nên bỏ xác để hồn lên mây.
Nó khinh dễ mạng loài nhân vật,
Chẳng hề ra tay giúp một ai;
Bảo rằng cái xác thúi khai,
2238. Nên đem giết bỏ hơn hay giúp giùm;
Kẻ rơi vào gông cùm của nó,
Sẽ tự tay giết bỏ thân danh;
Không còn trọng mạng chúng sanh,
Cho nên việc phải việc lành ngó lơ.
Ưa sát hại hơn ưa dung dưỡng,
Độc ác ngoài ý tưởng loài người;
Hiện nay khắp chốn cùng nơi,
Chỗ nào nó cũng thả người nó ra.
Khắp trong cõi Ta-bà thế giới,
Bị ma nầy dứt lối từ bi;
Không thông luân lý đạo nghì,
2250. Chẳng nhường kẻ dưới không vì người trên.
Chẳng biết tạo thiện duyên mai hậu,
Không rành câu vô lậu tận thông,.
Gần bùn mà chẳng hôi bùn,
Ở nơi ô trược mà lòng thanh bai.
Không biết dụng xác thây tạm giả,
Để lập nên đạo quả lâu dài;
Uổng sanh ra kiếp nhơn loài,
Không lưu sách sử những bài hay ho.
Vậy con khéo khuyên cho đời biết,
Rán trừ ma ác nghiệt ấy đi;
Đừng làm những việc ngu si,
2262. Xúi người hại lẫn hoặc đi giết mình.
Gặp kẻ nào bị tình phụ rảy,
Nên dạy câu ân ái ba đời;
Xưa mình ở bạc với người,
Cho nên nay mới chịu đời vô duyên.
Cũng chẳng nên ưu phiền sầu não,
Để tránh nhân bất hảo về sau;
Hoặc là quán kiếp trần lao,
Thân không tồn tại tình nào còn chi.
Trong cái đẹp phương phi mỹ nữ,
Chứa biết bao nhiêu thứ tanh hôi;
Chừng khi thân ấy già rồi,
2274. Da nhăn má cóp vô hồi xấu xa.
Rồi lần đến tiêu ra phân cỏ,
Vẻ yêu kiều kia có còn đâu;
Nay người phụ rảy mặc dầu,
Không nên ưu ái lo rầu làm chi.
Trong lòng biết nghĩ suy như thế,
Tất không rơi vào kế yêu tinh;
Niệm câu huyễn chất hư tình,
Tất không bị cảnh làm mình núng nao.
Nếu có chúng sanh nào chưa ngộ,
Con khéo lời để độ người ta,
Nếu sa vào bẫy yêu ma;
2286. Thảm sầu không thể nói ra cho cùng.
Ma có hình ma không bóng dáng,
Hai loại ma lãng vãng trong trần;
Không hình ma ẩn vào thân,
Có hình ma ở bên chân người đời.
Thứ ma xúi ra lời ra lẽ,
Thứ ma dùng mánh khóe trong tâm;
Người lầm chẳng biết rằng lầm,
Kế mưu yêu quỉ thâm sâu vô cùng.
Nhà đạo sĩ chưa thông sáu phép,
Thường bị yêu kềm kẹp giữa chừng;
Nếu không tâm khảm thần ngưng,
2298. Bị ma dẫn lộ uổng thân tu hành.
Phật thương sót chúng sanh thọ nạn,
Dùng thần cơ bày cạn cho con;
Khéo gìn chặt lấy tâm son,
Noi gương chư Phật chiều lòn khuyên dân.
Rán bồi bổ đức ân dày dặn,
Cùng Phật Tiên dựng bảng Phong Thần;
Ta liền cúi lạy xin vâng,
Lời chi của Phật cũng khuân vào lòng.
Đem tâm lực lập công bồi đức,
Kêu cho người đến thức mới thôi;
Bụi trần chừng được sạch trôi,
2310. Sẽ cùng chư Phật chung ngồi tòa sen.
Ta xong lời Phật bèn nói tiếp,
Lời con phân rất hiệp đạo cơ,
Kẻ lành duyên hiện còn chờ;
Khéo làm cho họ được nhờ lối đi,
Giúp họ tu trước khi biến thế,
Chưởng phước điền dành để qua truông;
Dân tâm đang lúc rối cuồng,
Khéo lời giúp họ gỡ suông tơ lòng.
Mau gạn đục tầm trong cho kỹ,
Lánh mùi đời tầm lý siêu nhiên;
Xưa vì chưa rõ tục Tiên,
2322. Đến nay còn vấn trong miền trần ai.
Giờ đã hiểu đâu dài đâu ngắn,
Cũng nên lo cho đặng siêu phàm;
Của trần chớ bận lòng tham,
Từ lâu tham nó đâu làm chi nên.
Tham vốn là căn nguyên sự khổ,
Tham là mồ vô số sanh linh;
Tham danh, tham lợi, tham tình.
Càng tham càng thấy lòng mình không an.
Tham khi được rồi toan lo giữ,
Rủi mất đi sanh sự rầu buồn,
Trong lòng cứ rạo rực luôn;
2334. Phải là tham vốn cội nguồn khổ chăng?
Tham thì gian kế sang đến tội,
Tội vốn là nguồn cội tử sanh;
Bao nhiêu khổ ách hoành hành,
Do lòng tham đắm nảy sanh phần nhiều.
Vậy rán bỏ đừng chiều nó nữa,
Để cho lòng thường bữa được yên;
Những nào túc trái tiền khiên,
Chỉ là lo trả lòng nguyền không gây.
Chịu cay đắng giồi mài chánh đạo,
Hẹn một đời trực đáo Tây-Phương
Vua lòng tay tự cầm cương,
2346. Thắng con ngựa ý trên đường xa xôi;
Không mỏi dạ trước ngôi Phật điện,
Chẳng lảng tâm khi niệm Di-Đà;
Huệ lòng ắt được trổ hoa,
Đạo mầu sẽ đắc Phật tòa được lên.
Vật báu quí giá tiền phải mắc,
Đạo cao siêu công đức cho dày;
Chớ nên tu niệm sơ sài,
Lòng mong đạt được phép tài Thần Tiên.
Bị khảo đảo không phiền không chán,
Gặp chông gai chẳng ngán chẳng ngao,
Sòng nâu cứ vẹn một màu,
2358. Gương lòng thường được chùi lau không rời.
Đem lợi ích cho người chẳng tiếc,
Ngồi tham thiền mỏi mệt đừng quên;
Như vầy đạo cả ắt nên,
Con ôn trong trí để khuyên người đời.
Ta liền xin vâng lời chỉ phán,
Đem lời vàng rao dán khắp châu;
Cúi xin Phật dụng phép mầu,
Khiến cho ai cũng qui đầu Phật môn.
Phật ngăn lời ôn tồn dạy bảo,
Lời Phật như cơm cháo trân hào;
Chúng sanh tợ kẻ đói đau,
2370. Bảo ăn không chịu làm sao no lòng.
Chúng sanh phải tự trong tâm ý,
Phát nguyện tu mới thị chơn tu;
Nếu tu vì bị phép mầu,
Việc tu kia có khác nào thôi miên.
Còn lậm phép còn chiêng còn trống,
Hết phép rồi mối đóng nhện giăng;
Dụng phù lên xác nhà tăng,
Không làm thành đạt chỉ năng mê hồn.
Liền khi bị từ ngôn Phật quở,
Khiến lòng ta vừa sợ vừa mừng;
Sợ là sợ nét nghiêm thân,
2382. Mừng là mừng lẽ chưa từng khi nghe.
Ta cúi đầu tay che lấy mặt,
Vừa khóc vừa xin Phật thứ tha;
V. lòng thương xót bá gia,
Nên con xin Phật dụng ra phép mầu.
Chẳng rõ là cao sâu hơn nữa,
Được Phật thương dạy sửa cho đây;
Ơn nào sánh kịp ơn nầy,
Ngậm vành kết cỏ lòng đây chưa vừa.
Ta vừa dứt lời thưa Phật tiếp,
Lòng thương người tất hiệp Phật tâm;
Lời xin ấy dẫu sai lầm,
2394. Cũng không gọi lỗi chớ dầm dề châu.
Nên mừng được nghe câu chơn lý,
Khá vui đem tâm chí giúp người;
Tu hiền như đóa hoa tươi,
Hụng hăng tựa lá úa rơi bên lề.
Hoa tươi lắm người mê kẻ hái,
Lá rơi đâu ai lại ngó ngàng;
Cạn lời khuyên kẻ thế gian,
Hoa tươi nên chọn chớ màng lá rơi.
Sắp đến lúc đất Trời gầm chuyển,
Nhơn vật thay, non biển cũng dời;
Thây người chết tợ bèo trôi,
2406. Trong nhà quỉ khóc, ngoài trời ma rên.
Yêu ma chúng kêu tên kêu họ,
Kẻ lâm vào tất bỏ thân ngay;
Cọp vào nhà cõng lấy thây,
Sấu trườn lên lộ gắp nhai người đời.
Khắp Nam Bắc khí trời mù mịt,
Lộ không người nhà bít ngõ ra;
Người chưa từng thấy được ma,
Gặp ma hiện đến sẽ là hồn kinh.
Mặt mày cả gút nanh có đủ,
Thân giống người hình thú xấu xa;
Người thường bị vớ vào da,
2418. Phù mình nhức nhối đến mà tắt hơi;
Kẻ bị nó bóp nơi hầu họng,
Chết liền khi không đặng trối trăn.
Những người bị nó nhe răng,
Hồn phi phách tán nổi cơn điên cuồng.
Giết cha mẹ hại luôn con cháu,
Tánh hung hăng táo bạo phi thường;
Ăn dơ ở dáy không lường,
Đến ngày bỏ xác ngoài đường mới thôi.
Có thứ ma dùng hơi gió độc,
Thổi cả làng cảm sốt chết ngay;
Hiện hình đi khắp đó đây,
2430. Đến đâu chết đó phép tài kinh thiên.
Chúng sanh khắp cả miền Âu Á,
Gặp cảnh nầy mới tá hỏa lên;
Sớm lo phước đức xây nền,
Để làm thành lũy vững bền đuổi yêu.
Gần đến lúc tàn tiêu thế giái,
Bị gai quào cũng hại chết thân;
Đến như cỏ cắt tay chân,
Cũng làm độc đến lần lần bỏ thây.
Từ trong cỏ trong cây trong nước,
Trong khí trời có chất độc luôn;
Người nào khi đã bị xuông,
2442. Mạng căn nào khác như dường tơ treo.
Chúng sanh gặp nạn eo khắp chỗ,
Dù khôn ngoan không ngõ trốn ra;
Lòng tà tất gặp lũ tà,
Loại nào theo nấy hẳn là không sai.
Lòng Phật có Phật Ngài đến độ,
Tà hại người,Phật có hại ai;
Chúng sanh xét cạn lời nầy,
Khá tu chớ để tháng ngày trôi qua.
Một kiếp bị tà ma nhiễu hại,
Muôn thu chìm dưới đáy bể trần;
Không riêng lao khổ xác thân,
2454. Còn làm luôn cả chơn thần mờ lu.
Bây giờ chẳng chịu tu cho gấp,
Chừng đáo đầu lặp bặp sao xong;
Sấu còn biết muốn thành rồng,
Người sao không dạ ước mong siêu phàm.
Mang xác thúi không làm thẹn tủi,
Còn đem tâm đắm đuối say sưa;
Chẳng lo hành đạo sớm trưa,
Đổi thân sen báu thơm tho lâu dài.
Sao lại chịu sống ngày thống khổ,
Không lo tìm kiếm chỗ thanh nhàn;
Xuống lên trên cõi thế gian,
2466. Ăn cay uống đắng muôn ngàn kiếp qua.
Sao chẳng chịu xét ra cho kỹ,
Chán thói đời dối mị gạt mình;
Nào danh nào lợi nào tình,
Làm mồi để nhử cho mình mắc câu.
Cũng tại nó mà sầu mà khổ,
Nó làm tuồng bưng bợ thân yêu;
Tử thần khi đến gọi kêu,
Th. là nó cũng trốn tiêu hồi nào.
Nào những cái sang giàu oai vệ,
Nó không hề chết thế cho mình;
Lại là nó rất bạc tình,
2478. Khi mình chết, nó bỏ mình ra đi.
Thân trơ trọi nằm lỳ trong quách,
Cho đến tiêu ra đất ra bùn;
Thật loài hữu thỉ vô chung,
Càng xa sớm được càng không ưu sầu.
Lợi dụng nó làm câu phước thiện,
Đừng để cho nó khiến sai mình;
Rán mà vẹt ngút vô minh,
Chớ cho vật tạm làm mình phải ngu.
Giàu nghèo cũng cần tu mau chóng,
Đừng vội quên bỏ trống nhà xưa;
Cõi trần vì quá thích ưa,
2490. Từ lâu nước cũ nhà xưa không về.
Mẹ mỏi gối đợi kề bên cửa,
Cha đau lòng nhớ trẻ xa đường;
Con lành hãy sớm bải bươn,
Mau về lo việc lửa hương sớm chiều.
Nhà xưa ấy thường kêu An-lạc,
Cha mẹ là vốn Đức Như-Lai;
Nguyên do xưa có một ngày,
Đang ngồi con bỗng nhớ ngay cảnh đời;
Khi ấy mới dạo chơi đây đó,
Sanh lòng mê tiếng gió tiếng chim.
Vật chi cũng muốn kiếm tìm,
2502. Đi lần đến vật cứng mềm biệt phân;
Từ ấm lạnh đến phần trơn nhám,
Sờ mó vào rồi cảm động tâm;
Chỉ trong phút chốc mê lầm,
Chơn linh mờ mịt quên tầm đường ra.
Hết vật nọ sang qua vật khác,
Cứ say mê tạo tác liền tay;
Hằng đêm cho chí những ngày,
Cứ mê đi đến lạc loài trần gian.
Bị mọi cảnh buộc ràng không hở,
Nên lòng không hề nhớ quê nhà,
Đôi khi cũng sực nhớ ra,
2514. Đồng thời việc khác cũng là xen vô,
Rồi lại bắt nghĩ lo túi bụi,
Đến quên luôn căn cội xưa kia;
Tạo ra vật bị vật mê,
Mê cho đến tạo ra bề chiến tranh.
Thây chết chất như thành như núi,
Nước mắt tuôn tợ suối tợ nguồn;
Ghét thương mừng giận vui buồn,
Lúc nào cũng thấy quây cuồng trong tâm.
Sự khổ n.o hằng trăm hằng vạn,
Mà cũng chưa biết chán nơi lòng,
Như-Lai chẳng ngớt ngóng trông,
2526. Cho con sớm được tỉnh lòng hồi qui.
Vừa nghe Đức Từ Bi nhắc tới,
Việc chúng sanh lạc lối trần gian;
Tự dưng ta cất tiếng than:
Vọng tâm một phút gian nan muôn đời.
Thế thì vẫn từ hồi vô thỉ,
Cả chúng sanh đã bị mê lầm;
Trải qua nhiều kiếp càng thâm.
Cho nên ít kẻ thức tâm hồi đầu,
Chẳng nhờ Phật dài lâu chỉ bảo;
Chúng sanh mong gì tháo cho ra,
Nghiệt cay thay cõi Ta-bà!
2538. Khi vào thì dễ khi ra dễ gì!
Phật ngăn lời tức thì tiếp nói:
Con chớ nên trách cõi Ta bà,
Ta-bà chẳng nhiễm lòng ta;
Lòng ta tự nhiễm mới ra khổ hình.
Cảnh vô tình tại mình hữu ý,
Sự sanh ra thì lý mới sanh;
Khá nên tự trách lấy mình,
Chớ nên trách cảnh vô tình là sai.
Danh lợi vốn chẳng hay mê chúng,
Tại chúng sanh mê dụng lợi danh;
Lợi danh vốn loại vô tình,
2550. Tự mình tạo nó rồi mình lại mê.
Nếu đi dễ thì về cũng dễ,
Làm hay không tại lẽ ấy thôi;
Ta-bà chẳng trói buộc người,
Tại người tự trói vào nơi Ta-bà.
Nghe Phật quở lòng ta phát điếng,
Thế là ta hai chuyện hiểu lầm;
Nếu không Phật chỉ khai tâm,
Chính mình chưa thoát được mầm vô minh.
Nghĩ xong rồi cúi mình lạy Phật,
Xin thứ cho lời trách đã lầm;
Dạy thêm những lẽ diệu thâm,
2562. Giúp con được mở rộng tầm mắt ra.
Và khiến kẻ gần xa chưa rõ,
Nhờ lời lành đường ngõ được thông;
Cúi xin Phật nhỏ phước hồng,
Cứu thân cá chậu chim lồng được ra.
Phật nhích miệng như hoa tươi nở,
Lành thay! Con khéo mở tâm linh;
Thấy lầm, lầm đã khỏi mình,
Như ngoài hình mới thấy hình tròn vuông.
Nên mừng chớ nên buồn vô ích,
Càng vấn nghi sự tích càng thông;
Muốn gieo duyên khắp đại đồng,
2574. Đạo đời ý vị phải thông hiểu rành.
Ví như kẻ thường hành hàng hải,
Chỗ cạn sâu cồn bãi phải thông;
Lối nguy cần biết đề phòng,
Chỗ an nên hiểu để lòng khỏi lo.
Sự nào chẳng hiểu cho tột lý,
Không bao giờ tâm chí được an;
Cho nên đạo phải rành đàng,
Đâu qua địa phủ đâu sang Tây đài.
Nếu chỉ khởi lầm sai một niệm,
Rơi vào đường tà kiến muôn thu;
Ví như làm mắt đã mù,
2586. Suốt đời chịu tối khó âu trị lành.
Sự tu phải mổ phanh cho biết,
Tại sao tu? Tu được những gì?
Biết rồi thì cứ hành y,
Miễn làm sao được đến khi công thành.
Phật liền chỉ vào mình và nói:
Ví trên thân có bụi đóng đầy,
Tự tay chùi rửa cho ngay;
Đó là ý nghĩa của bài sự tu.
Sau khi được tay thu hết bụi,
Cả châu thân trở lại sạch trong;
Đó là ý nghĩa thành công,
2598. Lấy đây hiểu lý đại đồng như nhau.
Bổn lai tâm lúc nào cũng sáng,
Niệm trần lao phủ án che mờ;
Niệm trần lao nếu không ngơ,
Bổn lai tâm trở ban sơ một màu.
Thấy suốt chẳng vật nào cản trở,
Nghe thông không sót bỏ một lời;
Biết rành tâm niệm của người,
Việc mình việc chúng ba đời hiểu thông.
Trong nhứt khắc dạo xong khắp chỗ,
Việc lớn như việc nhỏ không lầm;
Diệu mầu của bổn lai tâm,
2610. Không lời để ví chẳng làm chi đo.
Phật tạm chỉ để cho dễ biết,
Từ mũi kim cây viết nhỏ nhen;
Đến như vật lớn lầu đền,
Tàu bè máy móc chế nên các loài.
Ấy cũng do bổn lai tâm tạo,
Đâu tự nhiên thành thạo hình hài;
Mê, nên tạo vật trần ai,
Giác rồi tất lập được ngay cảnh mầu.
Tâm khi lớn trùm bao vạn vật,
Khi nhỏ thì chun lọt lỗ kim;
Dụng tâm nếu muốn kiếm tìm,
2622. Nhắm vào nét chạm, mà xem thì tường.
Nét lớn nhỏ, tròn vuông, dài ngắn,
Nét cạn sâu, ngay thẳng, quanh co;
Nét cây cỏ đến chim cò,
Cũng là dụng bổn lai do mà thành.
Dựa lẽ ấy chúng sanh sẽ thấu,
Sức bổn tâm tạo cấu thế nào?
Gương lòng bụi tục khá lau,
Để soi bất luận vật nào cũng thông;
Đoạn nầy nhớ để lòng cho kỹ,
Khi tỉnh rồi con chỉ cho người;
Rán tu đừng có biếng lười,
2634. Hành cho chánh đạo một đời thành công.
Vừa nghe Phật dạy xong lời ấy.
Hốt nhiên ta tự thấy lòng mừng,
Cúi dầu lạy Phật xin vâng;
Sẽ đem lời Phật giáo dân khắp cùng,
Hầu khiến kẻ chưa thông đạo lý,
Được biết câu huyền bí cao siêu;
Từ lâu tội ác đã nhiều,
Nay nghe lời Phật ắt tiêu nghiệp trần.
Xin Phật dạy thêm phần con trẻ,
Khiến cho thông mọi lẽ thật hư;
Để khi ra giục thúc người,
2646. Đủ phương quyền thật đủ lời lại qua.
Nếu lầm nghĩa hoặc là không rõ,
Hại cho người cũng khó dắt người;
Thể theo lời Phật vừa rồi,
Nhơn sanh hiện đại nhiều người khôn lanh.
Sự nghi vấn dữ lành của họ,
Mình chẳng thông đường ngõ khứ lai;
Sẽ là không độ được ai,
Lại còn bị họ chê bai nhạo cười.
Duyên mình với mọi người bị đoạn,
Còn khơi tâm ngạo mạn họ lên;
Thế là mình đã gây nên,
2658. Chọc người nên tội, làm duyên Phật ngừng.
Như thế sẽ hại phần phổ hóa,
Con cúi xin lượng cả từ bi;
Dạy rành nước bước đường đi,
Để con có thể ứng tùy khuyên dân,
Phật liền phán: con đừng lo ngại.
Phật chỉ cho đại khái việc tu,
Lý mầu đều cũng chứa thu,
Lấy con số một khởi đầu đếm ra.
Dù nhiều mấy cũng là đếm được,
Nên giữ lòng sau trước an nhiên;
Để mà phổ hóa nhơn duyên,
2670. Bằng lời của Phật điểm truyền cho con.
Chúng sanh đang sống m.n từ phút,
Con khéo lời hối thúc người tu;
Bảo rằng chớ có ngao du,
Thân như lá úa mùa thu mỏng mành.
Nên lấy chữ tu hành làm gốc,
Được nhẹ thân được vớt linh hồn;
Đừng ngồi đợi nước đến trôn,
Mới ra sức nhảy ắt không kịp nào!
Nên tính trước để sau khó liệu,
Chớ cho tâm bận bịu mùi đời;
Quyết tu không hẹn chiều mơi,
2682. Quí giờ niệm Phật hơn người quí châu.
Ngồi tham thiền bao lâu chẳng biếng,
Xem kệ kinh mấy quyển không nhàm;
Trong lòng bao việc gian tham,
Đổi ra tánh biết muốn ham tu hành.
Lợi dụng trí thông minh văn vật,
Để làm theo việc Phật giáo khuyên,
Ai hung mình vẫn làm hiền,
Ai gian mình vẫn lòng chuyên thật thà.
Sự giúp người thì là vui giúp,
Lợi dụng người một chút cũng không;
Thương người với lý sạch trong,
2694. Không đem nghĩa trược mà tròng vào ai.
Sợ tội như sợ đày hải đảo,
Chuộng phước hơn chuộng báu thế gian;
Biết tu là được thanh nhàn,
Biết đời là cõi khổ nàn không mê.
Biết quấy là kẻ chê kẻ ghét,
Biết phải là người thích người ưa;
Tự tâm hôm sớm lọc lừa,
Chọn làm những cái người ưa người dùng.
Bao nhiêu đó khéo lòng sửa đổi,
Cũng sẽ không máng tội lỗi vào;
Ngày giờ thắm thoát qua mau,
2706. Bàn cờ thế giới càng xao động hoài.
Trong nháy mắt trời lay đất chuyển,
Người năm châu phách biến hồn phi;
Giang san sự nghiệp còn gì,
Ba năm đốn củi thiêu đi một giờ.
Tai nạn đến bất ngờ khó liệu,
Lâm nạn người, đến chịu nạn Trời;
Đời còn nhiều nạn chưa thôi,
Rán khuyên người chớ dể ngươi mà lầm.
Khá chưởng phước để ngăn đuổi họa,
Lo làm nhân khỏi trả báo oan;
Đời nầy vay trả lẹ làng,
2718. Sớm gây tối lại vướng mang vào mình.
Cá nhân vay gia đình chung trả,
Một người làm cả họ thác oan;
Thân nằm trong cuộc biến loàn,
Mạng căn rẻ rúng như sàng cá ương.
Bị nghi kỵ đủ xương thịt nát,
Vì của tiền chịu thác lắm người;
Thù nhơ oán chạ khắp nơi,
Đua nhau bắt giết là đời nầy đây.
Nghiệp oan đã tạo gây từ trước,
Tới bây giờ đến lượt phải đền;
Nếu riêng nghiệp đã gây nên,
2730. Thì là riêng một mình đền đấy thôi.
Nếu chung nghiệp vay lời vay mạng,
Thì là chung nhiều hạng lại đền;
Khắp nơi nức tiếng khóc rên,
Hồn oan khí hận xung lên ngất trời.
Không ai được yên nơi yên giấc,
Trong lòng không hề ngớt sợ lo;
Lo bề thiếu đủ đói no,
Lo thân cái chết đến cho ngày nào.
Sống như giấc chiêm bao một thứ,
Rủi lâm vào vạn sự buông tay;
Không ai biết được ngày mai,
2742. Hôm qua thấy đó bữa nay mất rồi.
Biết bao cuộc sóng dồi gió dập,
Cảnh thảm sầu tới tấp liền tay;
Cám thương già trẻ gái trai,
Sống đời mạt pháp không ngày nào an.
Nên tu niệm hơn toan làm dữ,
Ở hiền lành khỏi sự hung tai;
Biết gìn được bốn ngày trai,
Cũng là được bớt tạo vay nghiệp sầu.
Lúc khuya sớm nhớ câu lục tự,
Niệm cho thường họa dữ cũng lui;
Lửa lòng khá sớm làm nguôi,
2754. Bớt câu thù oán, bớt hồi cuồng tâm.
Buổi loạn dễ bị làm nghịch .,
Không dằn lòng tất bị oán thù;
Đến khi lửa dậy mịt mù,
Dập cho được cũng đài lầu tan hoang
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:20 | |
| - lvtmp6:
Từ cái ngó cũng mang tai ách,
Đến cái nghe cái nhách miệng ra;
Nếu không xét cạn nghĩ xa,
Dễ gây lấy họa chớ là không đâu.
Ấy cũng tại người tu thì ít,
Kẻ hung hăng gian ác thì nhiều;
Tự gây hoặc bị ghẹo trêu,
2766. Sanh ra hờn ghét hoặc điều đánh thoi.
Vì lẽ ấy khắp người lão ấu,
Muốn khỏi câu tranh đấu thù hằn;
Lửa trong tâm nhớ khéo dằn,
Mới là khỏi việc ăn năn cho mình.
Đời lắm kẻ quái tinh mưu chước,
Dễ khiến người lâm cuộc khó ra;
Việc nào khi hễ đến ta,
Hãy bình tâm để xét ra đuôi đầu.
Chớ tập tánh bạ đâu làm đó,
Hư phạm rồi sửa có dễ gì;
Việc thường thì chẳng nói chi,
2778. Nếu điều trọng đại mới thì làm sao.
Hạng người có quyền cao chức trọng,
Sơ một ly hư hỏng trăm thiên;
Hư hao nhà cửa của tiền,
Cũng còn tạo được ngay liền hoặc lâu,
Rủi chết mạng dễ đâu làm sống,
Sẽ gây nên bi thống nhà người;
Điều chi cũng xét tới nơi,
Không nên khinh suất đùa chơi sự nào.
Ở đời nếu được giàu suy nghĩ,
Sẽ tránh điều vô ý thường khi;
Xử phân điều có củ qui,
2790. Việc nào cũng khiến được đi xuôi dòng.
Phần đạo lý được lòng cẩn mật,
Sẽ giúp cho khỏi mất chơn cơ;
Không hề để chút hở sơ,
Các tà niệm khó xen vô được nào.
Mỗi cử động mỗi rào mỗi rấp,
Sẽ thường không sai thất lỗi lầm;
....................
Thận trọng đến cả tầm mắt ngó,
Phòng tránh lòng vạy vọ sanh ra;
Khi nghe khi tưởng cũng là,
Ngăn ngừa ý quấy xẹt ra bất ngờ.
Nhứt lời nói bao giờ cũng lọc,
Buông ra rồi khó hốt lại nào;
Tục rằng lưỡi bén hơn dao,
2804. Nói ra một tiếng đoạn bao nghĩa tình.
Sự vui buồn trọng khinh thương ghét,
Thường do nơi mồm mép gây nên;
Chỉ trong một tiếng cất lên,
Hoặc tan sự nghiệp hoặc nên cửa nhà.
Lời nói dễ phá hòa ra nghịch,
Lời nói thường giết chết được người;
Cho nên tất cả người đời,
Trước khi nói phải lựa lời cho thanh.
Nói tổn đức nói sanh thù oán,
Nói chia lìa nói tiếng trây trua;
Thì là nhứt định phải chừa,
2816. Dù ai cạy lưỡi không thưa thốt lời.
Nhà đạo sĩ khéo lời biện luận,
Giúp cho người biết đặng sự tu;
Trong tâm tan được gút mù,
Đức kia lớn có chi đâu sánh bằng.
Riêng phận con trên đàng giảng giáo,
Cũng khá âu cẩn đáo ngôn từ;
Vừa cho vẻ mặt vui tươi,
Vừa cho lời nói mát như gió chiều;
Lựa những lẽ kẻ yêu người kính,
Chọn từ câu ngay chính tốt lành;
Khi mềm như tiếng chim oanh,
2828. Khi hùng như chúa rừng xanh thét gầm.
Lời ngọt ẩn nghĩa thâm vô tận,
Khiến người nghe phấn chấn thêm lên;
Nếu người đạo lý đã quên,
Được nghe giảng giáo trở nên tỉnh lòng.
Gieo lời kệ khắp trong thiên hạ,
Khiến hương lành bay tỏa năm châu;
Cốt làm cho khắp đâu đâu,
Nữ nam lão ấu biết câu tu hành.
Con khéo mở lời lành dắt chúng,
Mượn đuốc thần soi phủng hốc hang;
Khéo làm cho khắp thế gian,
2840. Nắm tay nhau trở lại đàng từ bi.
Thế giới sắp đến kỳ biến hoại,
Gian ác không tồn tại xác hồn;
Vậy con khéo tiếng giục nôn,
Cho người gian ác trở chơn tu hành.
Nếu không thể khiến lành tất cả,
Độ một người cải hóa cũng nên;
Nếu người không có Phật duyên,
Như gà khác mẹ khó khuyên được nào.
Lòng từ thiện phủ bao khắp chỗ,
Cứ ra tay dạy dỗ khuyên răn;
Nếu tin thì sớm ăn năn,
2852. Bằng không cũng chẳng lòng hằng giận ai.
Không phân biệt cấp giai chủng loại,
Hễ là người cứ dạy cho tu;
Lấy lời chơn chánh hòa nhu,
Chạm lòng người trở hềm thù cũng ưng.
Đem hết cả tâm thân vì đạo,
Mặc cho đời khảo đảo vẫn vui;
Đạo mầu đã thắm say mùi,
Dù ai ưa ghét ngược xuôi như thường.
Con khá nhớ tận tường lời Phật,
Chớ để cho sót mất điều nào;
Thêm đây là một cành lau,
2864. Con nên dùng nó khi nào qua sông.
Nó chẳng ngại khi giông gió thổi,
Sóng càng to càng nổi lên cao;
Tiện hơn các loại thuyền tàu,
Giúp con khi gặp lúc nào phong ba.
…Nhiều khi yêu hóa phép tà,
Nước lên ngập núi cửa nhà đều trôi;
Nó sẽ giúp con ngồi trên nước,
Được nhẹ mình có lướt nguy nan;
Nhưng con cần nhớ kỹ càng,
Ngồi trên nó phải lặng an tâm thần.
Nếu tâm động việc trần một mảy,
Nó chìm lần xuống đáy nước sâu;
Chừng ni muôn nỗi thảm sầu,
2878. Của loài yêu quái bấu câu vào mình.
Ta cúi đầu nhận cành lau phép,
Rồi chắp tay khép nép lạy dài;
Lòng từ bi rộng lớn thay!
Việc chi cũng chẳng tiếc nài với con,
Ơn đức lớn biển non khó sánh;
Đáng cho đời trọng kính soi gương,
Con nguyền giữ vẹn một đường;
Độ mình và độ khắp phương xa gần.
Riêng con vẫn phải cần gắng sức,
Nhưng cũng xin Phật lực gia trì;
Khác nào kẻ mới biết đi,
2890. Mắt người cha mẹ thường khi xem chừng,
Phật rằng: Chính do phần duyên ấy,
Mới cho con được thấy hôm nay,
Lời mầu Phật dạy bên tai,
Cảnh mầu Phật hiện rõ ngay bên mình.
Sẽ giúp con đức tin phấn tấn,
Trong lúc chơn chưa đứng vững vàng;
Chỉ đường sanh tử Niết-Bàn,
Để cho con được rành đàng tới lui.
Phần con chuyện ngược xuôi được hiểu,
Cũng khiến người đạo diệu rõ mùi;
Lòng con có phải được vui,
2902. Khi nghe đích xác những lời Phật phân.
Ta cúi mình nhận rằng đúng thế,
Lời vàng đâu phải dễ được nghe;
Thân hèn mọn có đâu dè,
Hôm nay được Phật cho nghe lời vàng.
Không những con hân hoan tâm chí,
Đến như người nghe kỹ chuyện nầy;
Sẽ là cũng được vui lây,
Lòng tin thêm mạnh đường ngay thêm gìn.
Trừ những kẻ vô tình với đạo,
Dù có nghe chỉ nhạo rồi thôi;
Phật rằng: họ khó tỉnh hồi,
2914. Bởi duyên đạo cạn, duyên đời thì sâu.
Hạng nầy thường nhiều câu cay đắng,
Dễ gây cho tức giận nhiều người;
Vậy con khéo nhẫn khéo lời,
Để qua tiếng nhạo của người dữ hung.
Phải chịu được người đun kẻ thét,
Mới trở nên màu sắc vàng ròng;
Mười phương chư Phật Tây Đông,
Cũng từ lò đúc cõi hồng mà ra.
Chịu khổ được mới là đắc quả,
Không nhọc tu dễ há thành công;
Mang giày nhẫn nhục leo chông,
2926. Mặc y tinh-tấn đeo cung đại hùng.
Trừ cho được giặc trong giặc ngoại,
Thắng các loài yêu quái tà tinh;
Làm cho chúng khiếp oai mình,
Trở làm tùng giả mới bình yên thân.
Lúc nào cũng tinh thần vững chắc,
Không để cho ai dắt sai đường;
Tự làm chủ lấy thân luôn,
Dù trong giấc ngủ cũng thường không quên.
Được như vậy ắt nên đạo cả,
Con khá đem vào dạ từ câu;
Riêng thân khi đạt đạo mầu,
2938. Rán dìu bá tánh biết câu tu hành.
Phật thương chúng không đành ngồi ngó,
Gọi con vào chỉ rõ nguồn cơn;
Sắp ngày đảo hải di sơn,
Do cơ di dịch tuần huờn mà ra.
Nhơn với vật thiết tha tha thiết,
Khắp hoàn cầu chém giết lẫn nhau;
Thây nằm dường thể núi cao,
Máu trôi ngập đất khác nào nước dâng.
Cảnh đói khát quỉ thần phải khiếp,
Sự oán thù Trời đất cũng kinh;
Có nhiều thứ bịnh phát sanh,
2950. Lương y đều phải ngồi khoanh mà nhìn.
Khổ với thảm muôn nghìn xảy tới,
Dân khắp trong thế giới chịu chung;
Lòng người càng lúc càng hung,
Nạn tai càng nổi khắp cùng chưa thôi.
Nạn đến đỗi nhà vôi nhà gạch,
Bị tan ra bụi cát mịt mù;
Do lòng người chẳng chịu tu,
Mới ra lắm cuộc thảm sầu đó đây.
Việc đã hiện có ngay trước mắt,
Chớ phải đâu xa xắc khó tri;
Tại người không chịu xét suy,
2962. Hoặc là đã hiểu, ngơ đi không cần.
Vậy con rán khuyên lần chót hết,
Nếu không tu thì chết cũng ưng.
Đành rằng nếu có xác thân,
Dù ai cũng phải một lần chết đi,
Nhưng kẻ chết hồi qui cõi Phật;
Còn người sao lại thác ra ma,
Hoặc là chết được ngợi ca,
Hoặc là chết để gần xa chê cười.
Kẻ chết già người thời chết yểu,
Hoặc chết êm hoặc chịu chết đau;
Có nhiều cách chết khác nhau,
2974. Cũng nên lựa cách chết nào cho thanh.
Chết hồn được siêu sanh Cực-Lạc,
Chết để đời thường nhắc hiền nhơn;
Chết cho người nhớ công ơn,
Chết cho dân chúng thôn lân miếu thờ.
Chết vì nước, chết cơ phổ độ;
Cách chết nầy không hổ với ai,
Nhưng mà lòng Phật hiện nay,
Muốn cho người sống lâu dài như xưa.
Người muôn tuổi cũng chưa tóc bạc,
Thân tráng cường trí rất thông minh;
Trong lòng thường được tự tin,
2986. Suốt đời chẳng vướng vào mình lỗi chi.
Tri được mình còn tri được kẻ,
Cách ở ăn rành rẽ phân minh;
Vừa ngay vừa sạch tấm tình,
Với Thần Tiên cũng dám k.nh chẳng thua.
Người chẳng có chanh chua lanh xảo,
Biết trung trinh hiếu thảo dạ thưa;
Muốn nầy chừng được mới vừa,
Con mau khuyên chúng sớm trưa tu hành.
Làm nhơn ái lo dành phước đức,
Phật sẽ dùng diệu lực đỡ nâng;
Đưa cho đến lập đời Tân,
2998. Để cùng chư Phật được gần ngày đêm.
Lập đời mới nhà êm nước thịnh,
Không nứơc nào thôn tính nước nào;
Cùng đồng ngôn ngữ như nhau,
Dễ bề thân kết ngoại giao xa gần;
Khác ngôn ngữ khác phần tư tưởng,
Khiến biệt phân phẩm lượng khác nhau;
Nước mình là nước phú hào,
Nước người là nước bào hao bần cùng.
Nước lớn nhỏ sanh lòng chấp trách,
Khởi lên tâm lối phách kiêu căng;
Gây nên chia rẽ thù hằn,
3010. Dắt lần đến chỗ thẳng căng chiến trường.
Điều nầy rất vô lương bất chánh,
Không lưu tồn đến cảnh đời tân;
Vậy con khuyên cả nhơn dân,
Muốn cho thân được sống gần cảnh ni.
Phải nhứt quyết bỏ đi việc quấy,
Lo làm lành dù phải nát thân;
Thác đi chứng quả Phật Thần,
Sống th. được hưởng đời tân lâu dài.
Đời tân với bồng lai tương tự,
Không có người hung dữ gian phi;
Ai ai cũng biết đạo nghì,
3022. Cảnh vui người đẹp khác gì cõi Tiên;
Sống với tuổi muôn thiên dày dặn,
Người thường hay bay đặng khắp nơi;
Cỡi mây xuống đất lên trời,
Đi đâu cũng được không nơi ngại ngùng.
Người người được thung dung tự tại,
Không ai buồn ai hại lẫn ai;
Của rơi không kẻ thò tay,
Nhà không đóng cửa chính ngay đời nầy.
Dù cho kẻ ngu ngây thế mấy,
Nghe điều nầy cũng lấy làm vui;
Bỏ đi cái kiếp lằng ruồi,
3034. Rán tu cho được gặp hồi an cư.
Chớ ngồi đợi việc hư đến nước,
Mới toan lo khó được toàn thây;
Gặp hùm thì cứ leo cây,
Gặp voi thì cứ chạy quay lòng vòng.
Ngồi than mãi ắt không rồi việc,
Nói không làm đến chết không nên;
Ngày giờ mau lẹ như tên,
Cũng cần tu gấp chớ nên chần chờ.
Nếu đợi đến vào lờ chúng quỉ,
Vạn sự đều hưu hỉ nan phương;
Khá tu chớ có xem thường,
3046. Nay không liệu gấp sau đương không rồi.
Vì lòng quá thương người hạ giới,
Phật cạn lời quấy phải cho tin;
Vậy con hôm sớm khá gìn,
Sau khi thức giấc trần tình người nghe.
Tin thì tốt dù chê cũng mặc,
Noi từ bi cứ nhắc nhở luôn;
Nói chi cũng chẳng hề buồn,
Miễn cho đạo mở rộng đường thì hơn.
Rán giúp khắp muôn dân hiện tại,
Được sống còn đến cái Tân Nguơn,
Trừ người số định mãn phần,
3058. Thiên Tào bôi sổ khó dần dài thêm.
Kẻ nào còn dài niên kỷ mạng,
Rán giúp cho đổi hạng trường xuân;
Bao nhiêu lời đã vừa phân,
Con nên in trí chớ cơn nào rời.
Ta liền cúi vâng lời vàng ngọc,
Hẹn từ đây chí dốc tu hành;
Làm cho rồi phận chim xanh,
Gieo điềm cho khắp dân lành gần xa.
Núi cao lớn vẫn là mòn lở,
Lòng keo sơn không thuở nào rời;
Làm cho tỉnh thức người đời,
3070. Làm cho cửa đạo chói ngời dường châu.
Nguyện vào trận mưa dầu nắng lửa,
Cứu người cho đến thở cuối cùng;
Gương lành cùng Phật nêu chung,
Thì là mới được toại ưng lòng nguyền.
Cúi xin Phật chứng miêng cho trẻ,
Và độ giùm khi rẽ xuống trần;
Vì rằng chỉ có một thân,
Tả xông hữu đột lắm phần khó khăn.
Có khác nào Đường Tăng Tam Tạng,
Gặp yêu ma ngăn cản đầy đường;
Không nhờ có Phật Tây-Phương,
3082. Làm sao giải nạn trên đường thỉnh kinh.
Vậy trước đây con xin với Phật,
Nhận thân nầy làm vật cúng dường;
Đem về đến cõi Tây-Phương,
Làm người hầu hạ bên giường từ bi.
Phật rằng: đáng nên ghi tâm nguyện,
Phật cùng con chẳng viễn cách nhau;
Lúc nào đến những lúc nào,
Cũng là vẫn được hiệp nhau một đường.
Đây là một dây Cương-Mã-Trị,
Thắng được con ngựa . bất thường;
Phật cho con khéo cầm cương,
3094. Trong khi bôn tẩu trên đường độ tha.
Khi ngựa gặp phép tà cuốn vó,
Nhờ cương nầy thắng nó dễ dàng;
Dù cho vượt bể đăng san,
Dùng Cương-Mã-Trị tất an nơi lòng.
Con khéo giữ kẻo hòng bị trộm,
Mất đi rồi sẽ khốn dài lâu;
Khó về đến chốn Kim lâu,
Để mà cùng Phật chung bầu hư vô.
Ta liền niệm Nam Mô Tam Phật,
Chứng cho con lãnh vật báu nầy;
Trong khi dạo khắp Đông Tây,
3106. Dùng Cương-Mã-Trị phá khai núi rừng.
Muốn đi tất nhẹ chơn đi tới,
Muốn dừng không ngại lối chông gai;
Mầu thay ! Thật rất mầu thay !
Trong khi buồn ngủ gặp rày chiếu manh,
Có phải chăng xưa dành lắm hạnh,
Nay khiến ta được lãnh cương nầy;
Riêng ta nhẹ gót truông mây,
Khắp người cũng được hưởng lây sự mầu.
Bạc bảy há dễ đâu mua được,
Vàng mười không thể chuộc cho ra;
Nhịp cầu đến hội Long-Hoa,
3118. Nấc thang leo tới chín tòa Kim Liên.
Chúng sanh sẽ toại nguyền kỳ chót,
Hoặc về Thần về Phật về Tiên;
Lành duyên thật rất lành duyên,
Ai nghe đến chẳng lòng liền phát tâm.
Phật cất giọng thâm trầm liền bảo,
Được như lời ước hảo của con;
Nghiệp mê sẽ được tiêu mòn,
Lửa binh tai khổ hết còn phát sanh.
Ai cũng được hiền lành tất cả,
Tất cõi trần sớm hóa ra Tiên;
Đâu mang lấy kiếp khổ phiền,
3130. Cũng không sống cuộc đảo điên lâu dài.
Vậy con phải gọi ngay bá tánh,
Được một người phúc hạnh một người;
Cuối cùng nếu chẳng nghe lời,
Mạng đành theo cuộc đổi dời biết sao.
Việc cũng chẳng còn bao lâu nữa,
Biết lo xa mau sửa tốt hơn;
Mở lòng làm phước làm nhơn,
Sớm chiều cầu nguyện Phật Thần độ cho.
Có lòng thành khỏi lo Phật bỏ,
Người đành quên Phật có quên ai;
Phật liền đứng dậy xè tay,
3142. Trong tay ánh sáng xẹt ngay tức thời.
Sáng hơn ánh mặt Trời mấy bực,
Mát diệu không nóng bức chút nào;
Phật rằng: nơi cõi trần lao,
Hiền nhơn khi bị lâm vào nạn tai,
Ánh sáng nầy liền bay tới chỗ,
Cứu cho người nạn khổ được qua;
Dù người nát thịt tan da,
Cũng lành mạnh lại như là khi xưa.
Phật thường dụng Thần cơ vi diệu,
Kẻ khỏi nàn khi hiểu khi không;
Điện thường còn khó được trông,
3154. Huống là điện Phật dễ hòng thấy ư!
Ánh sáng nầy năng trừ tà quái,
Trong những khi hãm hại hiền nhơn;
Chúng sanh từng được hộ thân,
Nhưng đâu mấy kẻ nào từng biết ra.
Ngày lập hội Long-Hoa tại thế,
Ánh sáng nầy dành để cứu dân;
Cứu qua cơn lửa bạo Tần,
Cứu khi chuyển động âm thần khắp nơi.
Hiền nhơn chưa dứt lời khấn nguyện,
Ánh sáng nầy liền đến bên thân;
Lẹ không sức lẹ nào hơn,
3166. Chỉ trong nháy mắt xa gần tới nơi.
Phật cho con hiểu đời sắp biến,
Để tiện bề nhủ khuyến đó đây;
Phật liền tay chỉ vào cây,
Thân cây bỗng hiện rõ nay việc trần.
Nào nước dâng, nào thân người chết,
Nào bịnh căn, nào phép yêu ma;
Nào là sấu bắt hùm tha,
Nào là giặc giã cửa nhà tan hoang.
Nào bom phá nổ vang trời đất,
Nào lửa hồng cháy lợp khắp cùng;
Kẻ thời ôm chiếu, ôm mùng,
3178. Bồng con bế cái có đùm có đeo.
Con đói khát khóc kêu đòi bữa,
Mẹ túng cùng thắt cổ chết đi;
Cũng còn lại có nhiều khi,
Mẹ cha nỡ dạ ăn thì thịt con.
Kẻ đã chết người còn thoi thóp,
Đến các loài gia súc không còn;
Ăn luôn củ chuối củ thơm,
Cành cây bụi cỏ không còn lá đeo.
Lũ ruồi lằng đánh theo hơi thúi,
Bay đầy đồng đầy bụi kêu reo;
Nào thây trôi tấp như bèo,
3190. Kên kên quạ quạ ó diều mổ ăn.
Núi nổ đá sỏi văng chồng đống,
Đất liền khi không bỗng nứt ra;
Tự nhiên chôn sống người ta,
Tai đầy những tiếng khóc la kêu cầu.
Nạn ách đến thần sầu quỉ khóc,
Từ những nơi hang hốc đâu đâu;
Nơi nào cũng có thảm sầu,
Nơi nào thần chết cũng bâu kéo vào.
Ta vừa ngó vừa lau nước mắt,
Nếu như vầy nhơn vật còn chi;
Cúi xin lượng cả từ bi,
3202. Ra tay độ chúng qua khi tai nàn.
Phật rằng hiện con đang xem đó,
Đến ngày kia sẽ có giống y,
Đó là cuối Hạ Nguơn kỳ,
Cũng kêu là đại hội thi tại trần.
Qua lúc ấy đời Tân thành lập,
L.o ấu đồng hát khúc thanh b.nh;
Nhàn an, nước trị, người minh,
Thân không bịnh hoạn dân tình sống lâu.
Cảnh nầy kẻ hung đâu được gặp,
Toàn là người hiền đức tốt tươi;
Nếu ai muốn được coi đời,
3214. Cũng nên ăn ở theo lời kệ kinh.
Kính Tam-bảo lo gìn Ngũ giới,
Ăn Tứ trai thường lạy bốn phương;
Một lòng cải ác tùng lương,
Lo bề hiếu tử gìn đường Phật nhi.
Nhịn được việc quấy gì khó nhịn,
Làm được điều chơn chánh khó làm;
Việc hiền thì rất thích ham,
Điều hung thì dạ chẳng làm chi vui.
Thấy việc thiện như hồi khát nước,
Nghe điều hung như lúc điếc tai;
Biết mình có lỗi sửa ngay,
3226. Thấy người hữu đức hữu tài học theo.
Thực hành được mấy điều đã nói,
Sẽ đáng người sống nối đời sau;
Vậy con kíp kíp mau mau,
Ra đi khắp chốn kêu gào người tu.
Ta cúi đầu vâng câu chỉ phán,
Phật cho con thấy đặng sự đời;
Con xin kể lại cho người,
May ra người có tỉnh hồi được chăng.
Sự mầu nhiệm vô ngằn khó tỏ,
Không chịu tu biết thuở nào tu;
Nay con như kẻ đã mù,
3238. Phật cho ngó thấy còn đâu vui bằng.
Thấy nẻo khổ, thấy đàng khoái lạc,
Cảnh giả cùng cảnh thật xem qua;
Rõ ràng nơi cảnh Ta-bà,
Vừa tanh hôi cũng vừa là khổ đau.
Tuổi sống ngắn còn bao nạn ách,
Người ở ăn tánh cách tham gian;
Không ai trọn hưởng thanh nhàn,
Nếu càng lánh sớm là càng rảnh thân.
Phật rằng: đúng như con đã nói,
Người sớm tu sớm toại tấm thân;
Xuống lên nơi cõi hồng trần,
3250. Chịu đường sanh tử, chịu phần khổ lao.
Bị làn sống nghèo giàu lôi cuốn,
Bắt đấu tranh bắt muốn hơn thua;
Lợi danh lo bán lo mua,
Ái tình lo hốt lo vùa vào thân.
Đi cặp với tâm trần ham hố,
Nào ưu sầu tai khổ muôn trùng;
Mạng căn như đóa phù dung,
Muốn ham chưa thỏa kế chun vào hòm.
Nếu để mắt mà nom đích xác,
Công Dã Tràng xe cát biển đông;
Của tiền nhiều lấp cạn sông,
3262. Người yêu đứng lợp cả đồng cũng thôi.
Uổng công đổ mồ hôi nước mắt,
Vào tình yêu vào các lợi danh;
Chỉ gây lấy tội vào mình,
Thân không trường hưởng, hồn linh đọa đày.
Chi bằng lấy những ngày trụy lạc,
Lo tìm đường giải thoát trần ai;
Đem đời ngắn đổi kiếp dài,
Đó là biết dụng trí tài phải nơi.
Kẻ thông minh hoặc người ngu dốt,
Cũng nên tu lần chót nầy đây;
Để xem được hội rồng mây,
3274. Và trông cho biết phép tài thần tiên.
Kẻo bấy lâu nghe truyền lời miệng,
Mắt chưa trông thật chuyện nhiệm mầu;
Việc chưa tới bảo rằng lâu,
Tới rồi như sét ngang đầu khó toan.
Vậy con nhớ khuyên hàng thiện tín,
Rằng Phật không lời phỉnh ai đâu;
Hãy mau hối cải quày đầu,
Trễ qua cơ hội dễ đâu kiếm tìm.
Việc hiếm có cổ kim khó gặp,
Gặp được nhờ cùng Phật hữu duyên;
Tục phàm được hóa Thánh Tiên,
3286. Chúng sanh về Phật cũng nguyên hội nầy,
Rớt hố thẳm được dây bìm sắn,
Rơi sông sâu vớ đặng khúc phao;
Ấy là hạnh phúc dường bao,
Há không hoan hỷ bước vào Phật môn.
Được người mến được hồn siêu rỗi,
Giá quí cao gấp bội của tiền;
Một người đạo quả đắc thiền,
Lại còn cứu được cửu huyền siêu thăng.
Đó chẳng khác như thuyền một chiếc,
Chở được nhiều người vượt qua sông,
Phải là lợi ích lớn không,
3298. Chẳng lo tu niệm còn h.ng việc chi.
Thương quá đổi mới di cơ mật,
Khắp nhơn gian nên thức cơn mê;
Nầy con trong cái ao huê,
Có nhiều hoa bỗng ủ ê mặt mày.
Nguyên nhân bởi gái trai trong đạo,
Tu nửa chừng vội tháo lơi ra;
Nếu không sớm sửa lòng tà,
Hoa xào đến rụi th. là hết trông.
Nếu ai có được lòng quảng ái,
Khi xem hoa đều phải châu rơi;
Ước sao sớm thức được người,
3310. Để hoa trở lại tốt tươi như thường.
Phật liền chỉ vào phương gần đó,
Bảo rằng con nên ngó xem hoa;
Đúng như sự thật chăng là,
Hay lời Phật nói sai ngoa với đời.
Trông thấy hoa, nghe lời bi thiết,
Khiến lòng ta chi xiết ngậm ngùi;
Hoa tươi xem thấy rất vui,
Hoa xào càng ngắm lòng ôi càng buồn.
Cái đã khô cái đương xào úa,
Cũng có hoa ướm nở rồi ngưng;
Đúng như lời Phật đã phân,
3322. Có nhiều thiện tín tinh thần đang lui;
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:21 | |
| - lvtmp7:
Bỗng nhiên ta nghẹn lời sa lệ,
Một hồi lâu không kể ra lời;
Phật rằng: văn vật thạnh thời,
Dễ làm cho khắp mọi người say mê.
Cùng kẻ quấy theo về một lối,
Nẻo tu hành bước thối ra xa;
ĐÃ rơi lầm kế yêu ma,
Đáng nên thương tiếc biết là dường bao.
Kẻ đang lầm dễ nào đánh thức,
Bởi họ tin rằng thật trăm phần;
Họ ngơ lòng việc Thánh Thần,
3334. Chỉ lo thật tại cho thân đủ đầy.
Phật thương xót kẻ nầy vô hạng,
Họ khác nào mắt sáng kéo mây;
Tự làm cho trí ngất ngây,
Chánh đường nở bỏ lại quay đường tà.
Hạng nầy chẳng phải là một kẻ,
Mà đã đang rất có nhiều người,
Chỉ là một nhỏ mực thôi;
Nhưng mà có thể lan trôi ra nhiều.
Họ là kẻ đem nêu gương xấu,
Cho nhiều người tùng dấu đi sai;
Vậy con cũng khá mau tay,
3346. Ra công chận lại bớt lây phần nào.
Tuy rằng hoa đang xào đang úa,
Nếu ăn năn hoa trở nên tươi;
Như khi dầu thấm tim rồi,
Ngọn đèn sẽ được lửa khơi mạnh liền.
Tâm với hoa căn nguyên vốn một,
Hoa cùng tâm khí cốt tương ưng;
Xem hoa rõ biết tinh thần,
Đang cơn hăng hái, hoặc cơn thục lùi.
Con còn bắt sụt sùi cảm động,
Huống Phật càng bi thống dường bao!
Bị sa đọa một người nào,
3358. Lòng buồn hơn kẻ trần lao thất tình;
Nay gần lúc vang thinh Trời đất,
Càng xót thương chúng mất thiện tâm;
Đời nầy để bị nịch trầm,
Kiếp sau đọa chốn u thâm muôn đời.
Ra tro bụi ra nơi cây cỏ,
Trong bùn lầy hoặc chỗ nhuốc nhơ;
Ở trong thế giới mù mờ,
Khổ sầu hơn tự bao giờ đã mang.
Chúng không thấy trước đàng nguy hiểm,
Nên cứ vui ô nhiễm hồng trần;
Thấy người sắp bị sa chân,
3370. Lòng từ mau đến dắt lần cho ra.
Vậy con khá nhớ qua lời Phật,
Đi đó đây gọi thức chúng sanh;
Không phân cấp bực giới ranh,
Bắc Nam đâu cũng chỉ rành việc tu.
Người đồng loại khuyên câu nhứt thể,
Kẻ khác nòi dạy lẽ tương thân;
Giàu sang nên giúp cơ bần,
Quan liêu khéo xử cho dân được nhờ.
Chớ mưu việc đầu cơ hối lộ,
Đừng sanh tâm lang hổ hại người;
Xử phân ngay ngắn tốt tươi,
3382. Đáp lời dịu ngọt khi người hỏi han.
Kẻ học thức giúp hàng ngu dốt,
Đừng buông lời cười cợt mỉa mai;
Những người tuy đã lầm sai,
Có lời xin lỗi thứ ngay cho người.
Ăn ở đúng theo lời Hiền Thánh,
Xét mình rồi xét hạnh của người;
Xấu xa cùng việc tốt tươi,
Cả hai điều đáng cho nơi học hành.
Tốt tươi thì lưu tình bắt chước,
Xấu xa thì biết trước lánh đi;
Trên đời bất luận việc chi,
3394. Cũng đều lợi ích nếu suy xét rành.
Khéo dụng sự như anh thợ mộc,
Cây vạy ngay đều được dùng xong;
Tức là chuyển tội nên công,
Đổi điều họa trở phước hồng như chơi.
Phật liền chỉ vào nơi vồ đá,
Hiện ra thuyền Bát Nhã lớn lao;
Hào quang chiếu rực rỡ màu,
Nhưng không có đáy thêm vào không mui.
Phật rằng: thuyền ngược xuôi trên nước,
Vẫn không chìm và được chạy mau;
Thuyền nầy chừng đến ngày sau,
3406. Trong khi sấm nổ nước trào dâng lên.
Nó sẽ chạy khắp trên các nước,
Để vớt người nhân đức hữu duyên;
Đem về dự hội Hoa Liên,
Khỏi nơi khổ não xa miền trầm luân.
Kẻ bạo ác xác thân trọng trược,
Kéo lên thuyền cũng tuộc chìm đi;
Bởi thuyền do sức huyền vi,
Của chư Phật tạo cứu nguy người lành.
Phật liền chỉ vào cành bửu thọ,
Bỗng hiện ra Ty-Hỏa-Thần-Lung;
Rất nên đẹp đẻ hình dung,
3418. Hào quang ngũ sắc chói cùng khắp nơi.
Phật rằng: chừng cả trời lửa cháy,
Núi ra tro sắt chảy thành bùn;
Tức thời Tỵ-Hỏa-Thần-Lung,
Hiện ra to lớn bao trùm hiền nhơn.
Khỏi thiêu xác trong rừng lửa đỏ,
Mát mẻ như hứng gió mùa thu;
Những người bạo ác không tu,
Đứng ngoài lồng phép dễ đâu được vào.
Khắp bốn phía lửa ào phủ xác,
Thân tiêu ra tro mạt tức thì;
Phật dù lòng rất từ bi,
3430. Cũng không thể cứu vô nghì bất lương.
Khi nghiệp đến không phương đào tẩu,
Luật trả vay khó giấu dung ai;
Vậy con khéo dụng lời ngay,
Để khuyên bá tánh khéo dày công tu.
Lời Phật chẳng sai đâu chớ ngại,
Đời sắp tàn giải đãi sao xong;
Khá đem vàng nén bạc đồng,
Làm điều nhơn ái trừ xong tai nàn.
Kẻ bo bo đeo mang tiền của,
Chỉ hại thân đâu có ích chi;
Những phường trộm cướp gian phi,
3442. Bức cường lấy hết rồi thì tay không.
Ân chẳng có mang lòng ích kỷ,
Thác sẽ làm Ngạ quỉ tanh hôi;
Phải chăng là việc ngu đồi,
Vật không giữ được cứ ngồi bo bo.
Vậy con khá bảo cho đời biết,
Lo tu mau kẻo việc không rồi;
Tới đời đất hỡi Trời ôi!
Đông Tây Nam Bắc ối thôi tưng bừng,
Giặc-giã lớn chưa từng ngó thấy;
Chúng dùng nhiều khí giới kinh thiên,
Làm cho đất động trời nghiêng,
3454. Sanh linh chết chóc muôn thiên khó lường.
Thây lấp giáp Bình Dương biển lớn,
Máu trôi đầy khắp chốn cùng nơi;
Còn chi mạng số người đời,
Nếu không chưởng phước khó ngồi thế gian.
Phật thấy rõ mọi đàng hư thiệt,
Nên dùng lời chỉ quyết chúng sanh;
Khá tin để sớm tu hành,
Cứu thân và được độ lành mẹ cha.
Việc sắp cuối ngân nga sao kịp,
Phải quyết tâm thi thiết liền khi;
Một lòng nối chí từ bi,
3466. Xô đùa tất cả những gì bất lương.
Nguyện một kiếp Tây-Phương đến chốn,
Phá chư ma trừ hỗn loạn tâm;
Quyết không chịu kiếp luân trầm,
Dầu sao cũng quyết Lôi Âm dựa kề.
Đã rõ biết sự mê là khổ,
Nên phải lo giác ngộ chơn tâm;
Lấp bằng các hố sai lầm,
Để cho kẻ mến người tầm học theo.
Chớ để dạ ôm đeo việc ác,
Khiến mọi người bài bác khinh khi;
Giá danh hiện chẳng còn gì,
3478. Chết rồi hồn chịu lắm khi đọa đày.
Đầu thai cõi trần ai đau khổ,
Chịu ngu khờ ở chỗ cơ nguy;
Từ sanh cho đến chết đi,
Không ngày nào được hưởng gì sướng vui.
Sống trong cảnh nặc mùi thảm khổ,
Khiến lắm người phun nhổ gớm ghê;
Chúng sanh vì quá còn mê,
Chỉ lo hiện tại quên bề vị lai.
Nay sung sướng ngày mai khổ não,
Mối oan khiên nghiệp báo không lầm;
Một vay phải trả thiên trăm,
3490. Cũng là tự đắc cho rằng khôn ngoan.
Phật trông rõ mọi đàng chơn giả,
Rất xót thương lòng dạ người mê;
Làm hung tuy hiện vinh huê,
Nhưng sau nầy chịu trăm bề khổ lao.
Sự khổ nhục khác nào giòi tửa,
Ăn bám đồ kẻ mửa người chê;
Càng nhìn vào cõi trần mê,
Lòng càng quặn thắt không hề thấy vui.
Bởi thương chúng đang vùi bụi cát,
Lòng từ bi rào rạc lo âu;
Cho nên mới dụng phép mầu,
3502. Gọi con về có dạy câu tu hành.
Chỉ cho biết ngọn ngành thời sự,
Lành ra sao còn dữ ra sao!
Cho con hiểu rõ âm hao,
Đến khi thức giấc kêu gào chúng sanh;
Nếu trễ ắt tan tành tất cả,
Cơ biến thiên sự đã định rồi,
Chỉ trong một phút một hồi,
Năm châu nhơn loại thân ngồi không yên.
Rán niệm Phật rán hiền tâm tánh,
Ngày hai thời cúi kính bốn phương;
Đến chừng có đại họa ương,
3514. Sẽ nhờ Từ lực khỏi đường thiết tha,
Phật chẳng nói sai ngoa khá liệu;
Liệu cho thân khỏi chịu lao lung,
Đừng chờ đến tiếng nổ đùng,
Pháo kia ra xác còn dùng được đâu.
Sau rốt hết trong bầu thế giới,
Có thứ ma tên gọi Thọ-Khâu;
Ở trong quả đất từ lâu,
Chừng ni nó mới bắt đầu thêm oai,
Nó có phép biến loài biến vật;
Tánh thường hay đố tật khắp người,
Gặp ai trẻ đẹp tốt tươi;
3526. Nó làm xấu xí ra người già nua.
Gặp kẻ mạnh nó đùa cho yếu,
Gặp tráng cường bắt chịu ốm đau;
Thấy người yêu mến lẫn nhau,
Nó làm chia rẽ héo xào đôi nơi.
Nó khiến gần những người mình chán,
Nó bắt xa những hạng mình ưa;
Nó làm trái ngược gió mưa,
Gây nhiều bịnh tật không chừa một ai.
Việc sắp thành nó gây cho bại,
Đang mừng vui nó hại buồn rầu;
Khi người đang muốn sống lâu,
3538. Nó làm chết yểu để sầu thân nhân.
Khiến quan trở thành dân thất lộc,
Tướng huờn binh chịu nhục suốt đời;
Khiến người giàu trở tả tơi,
Hại người nghèo đến thở hơi cuối cùng.
Nó khiến nhớ việc không đáng nhớ,
Nó xui quên việc khó thể quên;
Vật nào có xác có tên,
Nó làm cho khó vững bền dài lâu.
Ai lại chẳng âu sầu vì nó,
Nó không hề chừa bỏ một ai;
Còn mê xác chất thúi khai,
3550. Còn lòng mến tục còn ngày nó theo.
Nay nhằm lúc nạn eo khắp chỗ,
Nó lại càng tăng độ hoành hành;
Nó vào trong xác chúng sanh,
Đục mòn cho đến tan tành ruột gan.
Không riêng kẻ thế gian bị nó,
Đến như loài sắn cỏ côn trùng;
Cũng đều bị nó hành hung,
Làm cho khô héo ngắn-ngùn số căn.
Nó độc ác vô ngằn khó kể,
Quyết làm cho cõi thế không người;
Nó gây lắm cuộc đổi dời,
3562. Từ nơi thể xác đến nơi tâm hồn.
Đời bị nó thêm dồn lắm khổ,
Chỗ có người có nó vãng lai;
Bom hơi súng điện tàu bay,
Không trừ được nó chỉ quay hại người.
Ma nầy kêu Trời ơi đất dạ,
Nó có tài biến hóa lẹ làng;
Hóa người để hại thế gian,
Vào trong tâm chúng xui đàng sầu ưu.
Người càng dụng xảo mưu chống nó,
Càng hại thân chớ khó thắng qua;
Chỉ phương nhứt Niệm Di-Đà,
3574. Niệm cho đến Phật tay xoa vào đầu.
Mùi uế trược khắp châu thân mất,
Có hào quang phủ khắp cả mình;
Tức là khiến nó hãi kinh,
Dang ra không dám đến rình bên thân.
Trừ được nó chắc phần đắc đạo,
Sẽ thắng luôn tà giáo chư ma;
Được vào tận hội Long-Hoa,
Hết già hóa trẻ vốn là nơi đây.
Nước đã trải nhiều ngày bợn đục,
Cố lóng hoài rốt cuộc cũng trong;
Quen lâu thói xấu mặc lòng,
3586. Quyết tâm trừ mãi ắt xong có ngày.
Đã biết rối mau tay gỡ rối,
Không sớm thì muộn mối cũng suôn;
Nghiệp trần vay tạo luồng tuông,
Khéo chừa trả sẽ tròn vuông ngày nào.
Trước không tính để sau khó liệu,
Ngày cứ đi khó kéo ngược dòng,
Cuộc đời nào khác pháo bông;
Cháy lên chốc lát rồi hòng tắt đi.
Cảnh giả tạm có gì đáng mến,
Hãy mau tu kịp đến hội lành;
Nay không lánh trược tìm thanh,
3598. Ắt không còn dịp để mình hồi tâm.
Phật e chúng sa lầm đường khổ,
Nên xưa nay dạy dỗ không ngừng;
Nào cơ chữa trị bịnh nhân,
Nào là mượn lấy xác trần giáo khuyên.
Kệ trên không, diệu huyền trong nước,
Dắt hồn linh trong cuộc mộng du;
Có nhiều phương tiện dạy tu,
Hằng hà không thể đếm thu cho cùng.
Vậy con cũng khéo dùng phương tiện,
Để dắt người khỏi bến sông mê;
Con nên lo liệu vẹn bề,
3610. Để mà có sớm trở về Kim-sơn.
Ta cúi mình xin vâng ý Phật,
Nguyện ra tay dẫn dắt nhơn sanh;
Đem lời trong giấc mộng lành,
Kể cho người biết ngọn ngành giả chơn.
Tuy lời nói trong cơn đang ngủ,
Nhưng chứa đầy ý tứ diệu mầu;
Nào là rõ việc Kim lâu,
Nào là ao báu sen màu tốt tươi.
Nào gậy phép chói ngời ánh sáng,
Nào gươm linh nhấp nháng hào quang;
Lại thêm có bát nhã thuyền,
3622. Có cành lau phép quá giang rất mầu.
Còn lại có những câu mật chú,
Trừ loạn tâm, trừ thú ác hung;
Niệm câu đại lực Thần-cung,
Bắn ra tất hiện muôn trùng tên bay,
Mỗi mũi mỗi găm loài ác thú,
Tuy giản đơn có đủ hiệu năng,
Trăm lần trăm trúng chắc rằng,
Lời vàng của Phật dạy răn không lầm.
Con nguyện để vào tâm không sót,
Quyết kể ra cho nốt người nghe;
Nếu tin thì lánh đường mê,
3634. Không tin cũng mặc không hề giận ai.
Nguyện đem một kiếp nầy độ thế,
Dù tan xương chẳng nệ chi thân;
Miễn làm cho khắp chúng dân,
Biết theo nẻo chánh lánh thân đường tà.
Phật dùng lấy đóa hoa mầu nhiệm,
Chuyển hồn con và điểm lấy danh;
Ơn nầy chất mấy muôn thành,
Đền cho vạn kiếp lai sanh không rồi.
Phật liền tay xoa nơi tụ đảnh,
Bảo rằng: con chớ tánh phàm phu;
Chữ ân của hạng sĩ nhu,
3646. Lấy câu nghĩa cả để âu đáp đền.
Nếu con giúp cho nên chánh đạo,
Th. ân nầy sẽ báo đền xong;
Có chi đến phải bận lòng,
Như người dương thế rao rong bên ngoài.
Đời sắp rốt nay mai không đợi,
Con mau lo kêu gọi chúng sanh;
Phút qua là phút tan tành,
Việc nay lòng chớ để dành ngày sau.
Khi con đến kêu gào bá tánh,
Gặp chông gai là cảnh rất thường;
Lòng nên đầy đủ can cường,
3658. Đừng lui trước cảnh tai ương phúc nào.
Con mạnh tiến giúp vào người tiến,
Khéo làm cho sớm hiển đạo mầu;
Bất kỳ con đến nơi đâu,
Luôn trong tầm mắt Phật thâu biết liền.
Độ sanh chúng khắp miền thế giới,
Chớ không riêng một khối một nơi;
Tùy cơ dù phải xa vời,
Đừng buồn trong lúc ly nơi quê nhà.
Đi theo chữ Ma-ha Bát-nhã,
Thân đó đây dày dã chớ nao;
Mạng người quí giá dường nào,
3670. Thân mình chớ quản ra vào chông gai.
Gặp lúc phải thân trai hóa gái,
Cũng nhiều khi giả dại qua truông;
Đủ phương ứng biến chiều luồn,
Để mà thức được người đang sai lầm.
Chớ ngại tiếng thì thầm chế nhạo,
Miễn khai thông cửa đạo đó đây;
Cơ nguy sắp đến cận ngày,
Vậy con cần phải ra tay giúp người.
Phật phương tiện dùng nơi bí pháp,
Gọi hồn con trong lúc đang say;
Chỉ rành sự thế nay mai,
3682. Cho con biết để gọi ngay người đời.
Tu cho kịp cơ trời biến đổi,
Một đời tu được rỗi muôn thu;
Bây giờ nếu chẳng chịu tu,
Sau dầu hối tiếc sự âu muộn màng.
Phật liền phóng hào quang chói rực,
Tay cầm lên một bát nước hoa,
Vừa cười vừa sối vào ta;
Ta liền cúi lạy, tiếng gà vừa nghe.
Mắt liền mở không dè nằm mộng,
Mùi hương còn dư đọng thơm tho;
Những lời Phật đã dạy cho,
3694. Nhớ ra không sót và lo vô cùng.
Và từ ấy khắp vùng đây đó,
Thường đến lui cạn tỏ đạo mầu;
Nắng mưa nào quản chi đâu,
Hao hơi tổn sức chẳng câu than phiền.
Thể lời Phật cứ khuyên tu m.i,
Miễn cho người hối cải là hơn;
Nay vì chưa được thuận cơn,
Nên ta phải tạm tách chơn nước ngoài.
Giữa đường bỗng chia tay đôi ngả,
Ngày như đêm lòng dạ xốn xang;
Nhưng đâu là cũng thế gian,
3706. Việc tu có thể bủa tràn khắp nơi.
Không riêng độ một người một chỗ,
Mà vẫn lo giác ngộ bốn phương;
Chóng lo đạo mở rộng đường,
Khắp người thế giới biết nương Phật- Đài.
Ước quê nhà gái trai lớn nhỏ,
Việc tu hành chớ có lòng xao;
Tuy rằng xa cách mặt nhau,
Nhưng lòng đừng một phút nào chia ly.
E việc thế còn nghi chưa rõ,
Cho nên ta đem tỏ chuyện nầy;
Trẻ già nhớ đọc nơi đây,
3718. Sẽ tường mọi cuộc chuyển xoay thế nào.
Khi biết được rồi mau tu tỉnh,
Đừng kể chi hoàn cảnh lâu mau;
Tâm hồn khuya sớm chùi lau,
Cố làm sạch các điều nào bợn nhơ.
Giảng bốn cuốn chớ ngơ dạ đọc,
Tám điều răn là gốc khá gìn;
Mỗi câu mỗi giống như in,
Lấy mười dữ đổi mười lành ngày đêm.
Sự tu tiến càng thêm chớ bớt,
Biết thương nhau chia sớt ngọt bùi;
Dù đời có lắm ngược xuôi,
3730. Khuyên nam nữ cũng cứ vui tu hành.
Rán chịu khó mới thành được việc,
Đem thân phàm đổi kiếp Thánh Tiên;
Xin nên phát một lòng nguyền,
Quyết tu hành đến khi thiềng mới thôi.
Hiện xác ta đang ngồi đất khách,
Tâm hồn không xa cách quê nhà;
Những người kính mộ Phật gia,
Lúc nào cũng có hồn ta đứng gần.
Người trong sạch ta mừng không ngớt,
Khi nhuốc nhơ ta rất lo buồn;
Mong người uống nước nhớ nguồn,
3742. Bốn ân khá đáp cho vuông phận mình.
Bớt xa xí để dành tiền bạc,
Giúp cho người đói khát cần lao;
Tiếng thơm và để phước sau,
Cho con cháu hưởng cho cao hồn mình.
Đừng ích kỷ chớ tình khe khắc,
Gặp tai nàn của mất không ơn;
Biết xài tiền đúng nghĩa nhơn,
Ấy là người biết sống cơn ly loàn.
Bao nhiêu việc tham gian vô lý,
Chẳng ai ưa nên trị lấy thân;
Giữa người đồng đạo xa gần,
3754. Thứ nhau khi lỗi nhắc chừng khi mê.
Đã lắm việc vụng về vô lối,
Do người mưu riêng lợi gây ra;
Khiến cho miệng thế gần xa,
Đầy lời kêu ngạo há là không nghe.
Việc chi cũng phải dè dặt kỹ,
Để tránh điều nhục sỉ tông môn;
Thiệt tu qui luật phải tôn,
Giả vờ khi ló đuôi chồn khó coi.
Ngày tháng lẹ như thoi như dệt,
Chẳng bao lâu kế chết đến nơi;
Rán treo gương tốt để đời,
3766. Chớ lưu tiếng xấu cho người cười chê.
Xác hải ngoại, hồn quê đất tổ,
Lòng không quên tưởng nhớ trẻ già;
Khi nghe việc quấy xảy ra,
Quên ăn quên ngủ, lòng ta như dần.
Nay sự thế đã gần bên vách,
Thân ta còn ở cách phương xa;
Nghĩ rằng không thể dần-dà,
Kết lời Phật dạy viết ra quyển nầy.
Để thay mặt cho đây về trước,
Gặp đồng môn trong nước xa gần;
Nhớ cầm lên đọc nhiều lần,
3778. Nghĩa sâu cạn khá tách phân kỹ càng.
Việc đạo lý nên toan liệu gấp,
Ngày lẫn đêm tu tập cho cần;
Bao nhiêu nghiệp vướng vào thân,
Nhứt tâm quyết rửa một lần cho tiêu.
Ta còn quên một điều Phật dạy,
Nếu có người trai gái cõi trần;
Trước khi đổi vật đổi nhân,
Chỉ trong một phút không cần chi lâu.
Ngồi hoặc đứng cách nào cũng đặng,
Chắp tay và ngó thẳng phương Tây;
Lòng không móng việc đó đây,
3790. A-Di-Đà Phật niệm rày một câu.
Thì cũng được nạn sầu thoát khỏi,
Nhờ hào quang Phật rọi vào thân;
Tiêu ma tiêu các chướng trần,
Khác nào cỏ úa lửa phừng cháy qua.
Chỉ một niệm cũng là khỏi nạn,
Huống chi là niệm đặng dài lâu;
Dù cho muôn thảm ngàn sầu,
Cũng tan tất cả như bầu không trung.
Khuyên đồng đạo khắp vùng đây đó,
Khá ghi lòng chớ có bỏ qua;
Nhớ câu nhứt cú Di Đà,
3802. Bất lao đàn chỉ đáo mà Tây-Phương.
Vả lại máy âm dương thay đổi,
Trận cuồng phong sẽ thổi nay mai;
Nếu không chứa đức sâu dầy,
Khó qua đại nạn trong ngày biến thiên.
Thanh-Sĩ một lời khuyên cùng cuối,
Hiện thân còn đang gởi nước ngoài;
Quê nhà già trẻ gái trai,
3810. Cũng nên nghe đến đêm ngày lo tu.
Viết xong ngày 15-7-1958
Ghi Chú:
(1) ‘ huệ chúc’: đuốc huệ
(2) ‘nghiệp hoặc’: nghiệp mê lầm.__
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Vạn niên huynh đệ August 15th 2020, 18:23 | |
| Vạn niên huynh đệ - vnhdp1:
Đang thiếp mắt ở trên giường bịnh, Bỗng nhiên nghe sét đánh bên tai; Từ Bắc phương một ánh sáng dài, Đã chiếu thẳng vào ngay thân xác. Đồng thời có mùi hương ngào ngạt, Thơm khắp phòng hơn rắc nước hoa; Rồi tự dưng ở trước mặt ta, Một Đạo-Sĩ từ xa đi tới. Vẻ đoan nghiêm phàm phu khác thói, 10. Vừa chắp tay vừa nói lên rằng: Muôn năm xưa cùng một song thân, Nước Đơn Tố cha Nhân mẹ Hạo. Cha mẹ hiền anh em rất thảo, Lại được bề gia-đạo vinh-vang, Nhưng phần anh dạ đã không màng, Nên đã sớm tìm đàng đạo hạnh. Vào sơn đảnh tu chơn dưỡng tánh, Lánh trần gian dứt cảnh ái ân, Nơi động tiên khuya sớm tu cần, 20. Chẳng hề để bước chân xuống thế. VÌ lẽ ấy đã bao thế hệ, Chẳng cùng em hội ngộ phút nao, Nhưng phần anh bất luận lúc nào, Việc em, cả trước sau biết rõ. Thầm mừng em đạo mầu sớm tỏ, Khiến vui lòng Tông Tổ suối vàng, Cũng soi đường cho cả thế gian, Bớt được sự lỗi lầm vô lý. Vừa rồi đúng vào giờ chánh tà, 30. Đang khi anh tọa vị tham-thiền, Thấy em đang thọ bịnh bất yên, Và đang khởi tâm nguyền bỏ xác. Vì nghịch cảnh vì người bỉ bạc, Khiến lòng em muốn thác nhiều hơn. Anh không đành ngồi lặng cao sơn, Mới vội vã hiện thân đến đấy. Trước thăm em cho em nhớ lại, Việc đệ huynh đã trải muôn đời, Sau riêng anh cũng có vài lời. 40. Khuyên em chớ vội rời phàm xác, Em đã gặp cụ già tóc bạc, Chính Thầy em ký thác nhiều câu, Phận chưa tròn bổn nguyện đã sâu. Sao em lại mong cầu cái chết, Người liễu đạo chết đâu phải hết, Sống độ đời dù chết độ đời. Độ đến khi khắp cả mọi người, Đều được rõ thông nơi đạo lý, Lòng độ chúng có bao giờ nghỉ, 50. Đó mới là thật ý từ-bi. Sao em không lấy trí xét suy, Lại muốn việc tử qui vô sự. Theo anh xét đã chơn Phật-tử, Yếm thế là một sự sai lầm; Cần phải nên có đại hùng tâm, Thắng qua các cuộc trần thử thách. Gặp cay đắng khổ lao đủ cách, Không núng nao mới đắc đạo mầu; Em chớ nên đem dạ chán sầu, 60. Hãy vui vẻ gìn câu phổ hóa. Xưa nay những ai nên đạo cả, Đều trải qua nhiều lẽ khó khăn; Quả càng cao khổ hạnh càng tăng, Danh muốn rộng công năng phải lớn. Em chớ quản chi thân đau đớn, Cũng đừng buồn hoàn cảnh khắt khe; Trước đây lâu anh đã từng nghe, Em nguyện gánh bớt tai khổ chúng. Kẻ chơn tu nguyện là có đúng, 70. Em ốm đau đã ứng lời nguyền; Những kẻ cùng em có thiện duyên, Nhờ em nguyện đã thuyên tai khổ. Em đau thế cho đời lắm chỗ, Nên vui, đâu nên có lòng buồn; Còn gặp người chận ngõ đón truông, Ấy thường sự trên đường đạo hạnh. Đạo đang suy mà đời đang thạnh, Cố nhiên hay gặp cảnh trái ngang; Chính nó là những cái nấc thang, 80. Càng bước được càng tăng quả được. Đường chông gai khéo tay vẹt bước, Sẽ đưa thân lần lượt đến xa; Riêng phận mình phương hướng thông qua, Còn giúp kẻ đi sau yên bước. Khuyên em khá xét cùng sau trước, Dứt lòng mong bỏ xác ấy đi; Nhớ niệm câu hỷ xả từ bi, Lặng lẽ đợi thời kỳ phổ độ. Ta nằm trơ khác nào tượng gỗ, 90. Chưa vái chào chưa ngõ lời chi; Tới đoạn nầy chừng đã tỉnh đi, Liền gượng dậy mở lời thưa lại. Đây nhớ lại lúc lên mười bảy, Hết mùa thu kế lại sang đông; Mấy tháng trời thọ bịnh nằm ròng, Cơm chẳng nếm cháo không dùng mấy. Thân ốm còn xương da bọc lấy, Chết chín phần sống chỉ một phần; Bỗng một đêm mê mệt thức thần, 100. Một cụ lão hiện thân trước mặt. Nhích miệng cười đưa tay ra dắt, Và bảo rằng chưa thác đâu con; Đời cùng con duyên nghiệp hãy còn, Con phải sống lo tròn mới được. Vậy cùng lão mượn đường mây nước, Dạo đôi nơi Địa-ngục Thiên-đàng; Để sau nầy dạy kẻ thế gian, Cho họ biết kẻo rằng không có. Khi xem xong hai nơi đã rõ, 110. Rồi cụ đưa núi nọ núi kia; Đến chừng khi quày trở lộn vía, Ngang qua một núi huê đẹp đẽ. Cụ liền bảo núi nầy có kẻ, Xưa lâu cùng con đã hữu duyên; Con rán tu chừng Đại hội Tiên. Sẽ gặp lại cựu duyên ấy được, Từ ngày ấy vẫn thầm mong ước; Vái làm sao gặp được người duyên, Thế là non ấy chỗ tọa thiền. 120. Của Ngài đã ẩn yên nơi đấy, Đây chẳng ngờ thân đang hoạn hoại; Được Ngài thân đến tại bên giường, Nhắc cho nghe xưa một song đường. Còn khuyên dạy tận tường mọi nỗi, Ân đức ấy đây xin cảm đội; Xin dạy thêm đường lối chưa thông, Đạo-sĩ liền cất giọng như đồng. Lúc bịnh ấy em không còn nhớ, Một hôm nọ có con bạch hổ; 130. Đến thăm em nói rõ tiếng người, Rằng: vâng lời Tiên trưởng đến nơi. Thăm Phật-tử đang hồi trọng bịnh. Bạch hổ ấy chính anh ra lệnh, Về hộ em đêm bịnh thậm nguy; Anh còn nhờ các vị Thần-kỳ, Đêm ngày đến độ em khi mệt. Có nhiều ông mặt như sơn phết, Màu đỏ đen dễ khiếp phàm nhơn; Ông thì phun, ông họa phù thần, 140. Đứng chật khắp quanh thân em đấy. Trong lúc ấy chính em đã thấy, Hiện giờ em còn nhớ phải chăng? Và có đêm em quá trở trăn, Hơi gần đứt đương ngăn đương ngặt. Trong lúc ấy ở trên tran Phật, Có tiếng kêu nầy Nhứt hỡi con. Hãy sống lo đạo nghĩa cho tròn, Sắp tận thế không còn lâu nữa; Đây diệu dược để mà trị chữa, 150. Chứng bịnh con đang buổi kinh nguy. Con nghiêng qua tay mặt mau đi, Để uống món thần y nầy đấy; Em liền cựa mình qua bên phải, Thuốc đưa ngay vào tại miệng em. Thuốc thì em chính mắt đã xem, Còn người gọi thì em không thấy; Nầy em ơi! Tiếng người gọi đấy, Chính cụ già thường dạy dỗ em. Lúc ấy vừa khoảng giữa trời đêm, 160. Dùng thiền quán nên anh đã biết; Trong lòng lấy làm mừng chi xiết, Được thấy em đạo nghiệp đã thâm. Có Thần Tiên có Phật giáng lâm, Cứu độ lúc xác thân thọ bịnh; Nếu em khéo tu hành chơn chính, Quả Bồ-đề đạt đến rất mau, Giống lành thêm phân tốt bón vào, Thì bông trái thế nào cũng sớm. Vì thấy khó rửa đời sạch bợn, 170. Và còn nhiều gai bớm chông chênh; Bước đạo mầu khó tiến rộng lên, Nên em muốn hủy mình khách thổ. Để trở gót về nơi Tịnh-độ, Việc trần gian để phó Thiên cơ, Điều nầy anh chẳng nhận bao giờ; Bởi nó chẳng hiệp cơ từ quảng, Phải vui chịu mọi điều khổ nạn. Để cứu đời qua đặng sông mê, Riêng thân dù muôn vạn ủ ê; 180. Xem thường sự chớ hề thối chí, Xuôi ngược vẫn trương câu đạo lý. Nghe hay không cũng chỉ phép tu, Đâu hơn khi bị đụng kẻ mù, Há trách phá thuyền tàu lúc gió. Nên tha thứ tánh phàm xiên xỏ, Hãy lặng chờ buổi khó đi qua; VÌ muốn cho nguồn đạo rộng xa, Cái phàm xác phải là bảo trọng. Khi qua sông thuyền bè tạm dụng, 190. Lên bờ rồi sẽ cắm bỏ ngay; Đạo muốn thành không mượn xác thây, Thì chẳng khác đốn cây mong trái. Là một việc hiểu lầm có hại, Em nghĩ xem có phải vậy chăng? Ta cúi mình và mới thưa rằng, Ngài dạy ấy trăm phần rất đúng. Nhưng đây đã nguyện thiền hóa chúng, Phí phàm thân gọi khống mấy năm; Những kẻ nghe cố để vào tâm, 200. Nhìn kỹ số đôi trăm có một. Còn bao nhiêu bay theo gió trốt, Chẳng còn lưu được chút hảo hòa; Lòng đã quên hẳn chữ Di-Đà, Trở lại thói xấu xa hơn trước. Ham danh lợi thích điều bạo ngược, Ruột nỡ đành cắt ruột không đau; Mất tinh-thần yêu mến lẫn nhau, Ai cũng chỉ lo giàu phần nấy. Khắp nơi, tiếng bất lành vang dậy, 210. Càng nghe càng thêm áy ruột rà; Chủ-trương đường lối Phật Thích-Ca, Đâu xúi việc tà ma ngoại giáo. Lẽ chơn chánh bị đời ngược đảo, Hễ nghe ra bắt não nề lòng; Thêm vào đang cảnh ngộ chưa thông, Nơi đất khách chờ trông mỏi mắt. Mọi việc vẫn còn đang trái mặt, Bề hiếu nhi chầu chực vẫn không; Nội bao nhiêu cũng đủ đau lòng, 220. Thân xác lại còn chồng lắm bịnh. Làm cho kẻ thật lòng thành kính, VÌ thân nầy lo lắng đủ điều, Khiến lòng đây nghĩ đến bấy nhiêu; Muốn bỏ xác hơn điều muốn sống, Chẳng ngờ chốn non mây Tiên động. Ngài được hay hóa bóng đến đây, Đạo-sĩ bèn ngâm lớn như vầy : 228. Ánh sáng mặt trời trong một giây, Đi cùng Nam Bắc khắp Đông Tây; Thần Tiên huệ cảm mau hơn bội, Một sát-na thông khắp vạn loài. Vạn loài gói giữa cái hư không, Không ấy thần cơ vẫn nhứt đồng; Động tịnh thăng trầm đâu chẳng biết, Chớ ngờ cách núi với ngăn sông. 236. Sông núi đâu ngăn được tấm lòng, Tấm lòng trùm phủ cả non sông; Muốn đi ai cấm về ai cản, Kim cổ bao giờ vẫn chủ ông. Ông chủ tạo ra được các loài, Thánh phàm tự nắm lấy nơi tay; Quyền năng không hạn cùng Trời đất, Ứng dụng nhiệm mầu chữ bế khai. 244. Khai bế máy thần mỗi khắc canh, Cũng duyên xưa cũng cảm căn lành; Mượn cầu quang tịnh thông đường-đệ, Giáp mặt cạn bày lẽ tử sanh. Sanh tử nhà tu phải hợp thời, Sanh vì độ chúng tử vì đời; Tử sanh đặt dưới từ-bi chủ, Bĩ thái không quyền buộc dứt hơi. 252. Hơi dứt sau ngày cửa đạo minh, Nước non trở lại cuộc thanh bình, Chợ quê đâu cũng dân An-Lạc, Yên giấc nhà tu chốn Thứu-Linh. Linh-Thứu đâu dung khách yếm trần, Việc người không độ, độ riêng thân; Hẹp hòi trái thuyết Như-Lai dạy, Chẳng ích lợi gì khắp thế nhân. 260. Thế nhân bị nghiệp xấu từ xưa, Việc quấy hay làm, tốt chẳng ưa; Kẻ bịnh lại còn dùng độc dược, Nên đến khuyên hơn giận lánh đừa. Đừa lánh con người sắp đuối chơn, Sát sanh cùng một thứ đâu hơn; Thời cơ ngang trái dù cho mấy, Độ chúng hằng lo độ chớ sờn. Tiếng ngâm như chuông ngân trong trẻo, Mỗi câu đều khéo léo sâu xa; 270. Rồi tự nhiên lòng thấy ngầy-ngà, Tiếng ngâm dứt mà ta chưa biết. Ngồi trân trối như người câm điếc, Kỳ bí thay! Những việc Thần Tiên, Sực nhớ ra ta cúi đầu liền; Đội ơn đức Ngài khuyên cặn kẽ. Đây với chúng duyên đâu muốn bẻ, Nhưng lý do các lẽ đã bày, Sống không làm đạo pháp rộng khai; Sống không gọi khắp ai nghe tới. 280. Sống cái xác ốm đau mệt mỏi, Khiến đồng môn lắm nỗi lo lường; Nên muốn lìa sớm cõi trần dương, Hơn lòng muốn lâu nương hạ giới. Đạo-sĩ chận lời và mạnh nói, Nếu muốn cho rộng lối đạo mầu, Cần sống lo đến lúc bạc đầu; Nửa chừng khó định câu đắc thất. Đạo càng lớn càng nhiều giờ khắc, Cứ truyền khai chớ đặt hạn kỳ; 290. Huống nhằm thời Phật pháp suy-vi; Trong khoảng ngắn dễ gì quảng đạo. Nếu các vị tương truyền Tam-bảo, Hễ kém khai liền cáo tạ trần; Sẽ khiến cho cửa đạo hẹp lần; Cho đến lúc không còn vết tích. Làm như thế lỗi đường Phật Thích, “Nguyện độ cho đến hết chúng sanh; Nếu có người khổ sở hôi tanh, Còn ở thế gian hành Bồ-tát”. 300. Đò sáu chiếc đưa người bến giác, Kiếp trải qua như cát sông Hằng; Mỗi đời đều mỗi gặp khó khăn, Vẫn tiếp tục con đàng cứu thế. Gương lành ấy muôn đời soi để, Đời đáng tôn làm mẹ làm cha; Độ một người căn đạo sâu xa, Bỏ thân cũng vẫn là hoan hỷ. Tình thương ấy chúng phàm khó nghĩ, Thâm dường bao hương vị dường bao; 310. Điều đó em há chẳng hiểu sao? Hãy bỏ ý sớm vào cõi tịch, Tuy gặp cảnh ngăn giang cách bích; Không độ nhiều độ ít cũng nên, Trong đôi trăm được một người hiền. Cũng quí giá hơn thiên châu báu, Theo anh thấy dù người hung bạo; Nghe qua lời chánh đạo khuyên răn, Tất nhiên lòng đôi phút ăn năn. Đôi phút ấy được ngăn tội lỗi, 320. Như vậy cũng là điều ích lợi; Sao em không xét tới điều nầy, Huống chi còn nhiều hạng gái trái. Biết hối cải một ngày một bữa, Việc sái quấy không thêm ra nữa; Bớt khổ người lại đỡ tội căn, Có phải là việc tốt hay chăng. Ai nghĩ đến chẳng rằng hữu ích, Nếu được kẻ bền đường Phật Thích; Hoặc suốt đời hoặc ít tháng năm, 330. Không làm cho giống ác mọc mầm. Điều ấy lại bội phần cao quí, Khiến kẻ được bớt điều tà mị; Ấy là làm đạo lý chớ gì, Em cũng cần suy nghĩ cạn đi. Đâu có một điều chi vô ích, Ngày nào chẳng phô-trương đạo Thích; Phút nào không giúp ích chúng sanh, Nếu em đem bàn toán tính rành, Số lợi ích muôn nghìn triệu ức. 340. Xác ốm đau chớ nên buồn bực, Tuy rằng làm khổ cực nhiều người; Kẻ lo em chẳng phải lo đời. Chính họ vốn là người lo đạo, Lòng lo ấy vì yêu Phật giáo, Nên chẳng màng khổ não thân tâm, Nếu lòng lo kia được thiết thâm. Duyên Phật pháp càng làm khắn chặt, Mượn đau ốm giúp người đạo đắc; Nên sống đâu nên thác hỡi em, 350. Để chút lòng suy xét thử xem. Anh bảo đó có nên hay chẳng? Chốn sơn đảnh vốn nơi thanh lặng, Chẳng ngồi yên vì bận đến em. Không đợi ngày đại hội Thần Tiên, Đến trước để cạn khuyên em đấy; Cầm phất trần tay liền phe phẩy, Đạo-sĩ bèn ngâm kệ như vầy: 358. Muôn kiếp nối liền một sợi tơ, Khéo xiềng buộc chặt máy thiên cơ; Hóa quang gặp trước ngày Long-Hội, Khuyên chớ ly trần, nhắc gốc xưa. Bất ngờ khi mới vừa được khuyến, Kế tiếp nghe ngâm tiếng thanh thao; Ân tình xưa ẩn nghĩa quí cao, Lòng bỗng nhớ đâu đâu xa thẳm. Đôi tròng nước mắt lần tươm thắm, Nghẹn ngào lên không bẩm ra lời; Đạo sĩ chừng như rõ mọi nơi, Ngài kệ tiếp những lời sau đấy: 370. Nằm yên không cựa quậy, Thân đau mềm cả thảy; Chẳng hề mở miệng than, Vẫn không lo trốn chạy. Từ chỗ chỉ ngo ngoe, Đạt đến nơi bay nhảy; Là câu chuyện tò-vè, Hẳn em thường trông thấy. Ta liền thưa đúng như thế ấy, Thân trơn tru không vảy không vi; 380. Chỉ bền gan chịu một khắc kỳ, Được mọc cánh bay đi khắp cả. Thân sâu bọ hoàn toàn biến hóa, Hình bướm ong nho nh. dịu dàng; Nếu không nằm lặng một thời gian, Sâu bọ ắt vẫn hoàn sâu bọ. Đạo sĩ liền dùng lời so đọ, Đối với loài sâu bọ nhỏ nhen; Vì muốn cho đổi lốt thấp hèn, Biết chịu khó nằm yên trong ổ. 390. Người há chẳng vì câu siêu độ, Rán nhẫn qua các khổ buổi tu. Lửa tắt xong sẽ hết khói mù, Nghiệp trả dứt còn đâu họa khổ; Kẻ lòng muốn được ngày tỏ ngộ, Chết không nao huống khổ xem thường. Cũng như người được rộng lòng thương, Gánh thay chúng mọi đường lao lý. Tất cả món của mình yêu quí; Hiến cho đời chẳng nghĩ hơn thua, 400. Lòng mảng lo đến sự giúp vùa. Quên nghĩ xác nắng mưa khó nhọc, Muốn cho chúng đạo mầu vui học. Đành hy sinh ráo rốt thân tâm; Đạo như vầy mới gọi cao thâm, Đáng cho khắp nhơn dân sùng kính. Không ham danh không màng chung đỉnh, Chẳng vui ngồi an tịnh riêng thân; Hằng sống liền xương cốt chúng dân, Dân đau khổ tức thân đau khổ. 410. Giúp cơm cháo chia cho chăn khố, Lòng thương yêu khó độ sao cùng; Muốn sống lâu để giúp nhiều lung, Đâu đành thác khi dân còn khổ. Nghe đến đây thấy lòng thẹn hổ, Tự trách mình đức độ kém xa. Lời chơn nhơn cao cả thay là, Vừa chánh lý vừa là từ ái. Ta chỉ nghĩ bỏ thân hoạn hoại, Dùng chơn thần lựa lại thân sau; 420. Khác thời cơ khác cả sắc màu, Ắt dễ độ người vào Phật Đạo. Thân thể một chỉ thay lấy áo, Mới hơn xưa tiện giáo nhơn sanh; Trong nhứt thời muôn vạn người lành, Theo cho kịp máy linh trời đất. E chậm trễ nước tràn bờ bực, Chúng sanh làm sao kịp lội bơi. Nghĩ đến đây ta chửa mở lời, Đạo sĩ đã hiểu rồi và nói; 430. Xác trần mỗi một kỳ thay đổi, Lựa hợp duyên tất đợi dài lâu. Thời gian kia ngưng tiếng đạo mầu; Không giúp chúng quày đầu hướng thiện, Việc hung ác lần lần lan diễn. Có phải chăng một chuyện thất cơ, Huống đạo trường khai hóa ban sơ. Đâu phải tiện dễ như em nghĩ, Không hợp thời không phù căn khí. Khó phô bày đạo lý khắp nơi, 440. Như thầy em ra thuận cơ trời, Còn phải chịu năm nhồi mười nắn; Đã nếm biết bao nhiêu cay đắng, Lăn lóc qua nhiều đoạn héo von. Rốt cuộc còn nạn cả bao tròn, Đến nay vẫn hãy còn vắng mặt. Lòng thiện tín đau như ruột cắt, Lối không thông chờ bặt tin nhàn; Sống chia ly, sống phút tai nàn, Thảm trạng ấy nhìn càng đau xót. 450. Kẻ thiện chí cũng nên nối gót, Đem từ ngôn cứu vớt sanh linh. Thức giấc mê kẻ sống riêng mình; Riêng danh lợi riêng tình thê tử, Nỡ gây rối khắp trong dân sự. Đành dứt tình máu mủ tay chân, Trái lời Thầy Tổ đã dạy phân, Đời khinh bỉ phải cần sửa lại. Biết đạo phải trọng tôn luật giái, Nói cho minh làm phải cho chơn. 460. Xử công bình ăn ở từ nhơn, Việc chi cũng cân phân tội phước. Làm hiền đức tránh điều bạo ngược, Biết thương nhau chia sớt ngọt bùi; Đoàn kết gìn lẽ sống yên vui, Ai cũng cứ trau giồi đạo lý. Cả già trẻ đồng tâm nhất trí, Đừng lợi tư chớ nghĩ riêng thù Thực hành cho đúng cách người tu, Cửa đạo tất hết lu lại tỏ. 470. Ai đâu dám đem lời xiên xỏ, Sẽ làm cho lớn nhỏ khắp người; Hướng tâm về với lẽ tốt tươi, Làm bớt được khi trời thảm đạm. Điều nầy em hẳn là biết làm, Mượn thời cơ để hoán tâm người; Đức thêm minh đạo sẽ chói ngời, Có phải lẹ hơn dời đổi xác. Cây đã sẵn chỉ công tưới tát, Mau trái bông hơn bắt đầu trồng; 480. Hợp máy thiên người cũng hợp lòng, Em há chẳng nhận rằng của hiếm. Việc bỏ xác chớ nên khởi niệm, Khá gìn thân để khuyến dân tu; Trời có mây ấy giúp cho cù, Nên mừng chớ có đâu nên ngại. Đến đây Đạo sĩ liền ngừng lại, Rồi nghiêm trang chậm rãi ngâm ra : 488. Con thuyền đã quá nửa giang hà, Dàng dạng kia là bến Hội Hoa. Tuy khách mỏi lòng phu mỏi cánh; Rán chèo một mạch nữa thôi là. Rán chèo một mạch nữa thôi là, Tới bến sẽ thuyền cắm bỏ qua; Khách thỏa lòng mong phu thỏa chí, Bình minh đền lại lúc phong ba. Bình minh đền lại lúc phong ba, Cảnh báu người xinh rất phú hòa; Các Phật tạn mày Tiên tạn mặt,
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:24 | |
| - vnhdp2:
500. Thường khi đâu dễ bước sang qua, Mới cả dân sinh mới nước nhà; Trường hưởng thanh bình trường phú túc, Đao binh không kẻ mở lời ra. Đao binh không kẻ mở lời ra, Ai cũng hiền lương cũng hiếu hòa; Tâm trí thông minh siêu dục lợi, Người cùng thương lẫn khắp gần xa. Người cùng thương lẫn khắp gần xa, Trẻ biết đưa tay dắt tuổi già; 510. Con hiếu vui kề lưng còng mẹ, Xóm làng không tiếng ó rầy la. Xóm làng không tiếng ó rầy la, Người chẳng thù nhơ chẳng vạy tà; Ngoài lộ của rơi không kẻ lượm, Lòng trong như ngọc trắng như ngà. Lòng trong như ngọc trắng như ngà, Đối với người nay hẳn khác xa; Ai cũng tự mình làm thước tấc, Xử phân đâu đó rất dung hòa. 520. Xử phân đâu đó rất dung hòa, Giữa kẻ quan dân chẳng sống xa; Khổ vẫn cùng chia vui vẫn sớt, Tinh thần như đúc một lò ra. Tinh thần như đúc một lò ra, Nhà Phật con Tiên hẳn đấy là; Muôn tuổi an cư muôn tuổi sống, Phu chèo rán giúp khách sang qua. Lời đẹp đẽ tợ thêu hoa gấm, . nghĩa sâu càng gẫm càng hay; 530. Khác hơn lời của kẻ trần ai, Ta cảm thấy lòng đầy kính trọng. Khi Đạo sĩ ngâm vừa dứt giọng, Ta chắp tay quì xuống tạ ân; Rằng: nếu không Đạo sĩ giáng trần Tôi sẽ ném mất thân đâu khỏi. Ân tái tạo tợ non cao vọi, Thân mọn nầy biết đối sao vừa; Lòng xin ghi nhớ mãi sớm trưa, Trải muôn kiếp cũng chưa quên được. 540. Đạo lý vẫn một lòng sau trước, Vừa độ thân vừa giúp độ người; Chừng nào không ai khổ trong đời, Mới đành chịu yên ngồi một chỗ. Đây từng đứng trước ngôi Phật Tổ, ĐÃ nguyện ra lời đó nhiều lần; Nên dù cho có đổi muôn thân, Chí phổ hóa không dừng bỏ được. Dù sóng gió dù bao xuôi ngược, Lòng thương người sau trước một lòng; 550. Chỉ hềm vì lối bước đầy chông, Chưa sớm được như lòng đã nguyện. Mới nảy ý thay đã đổi chuyến, Chớ đâu quên khuyến thiện nhân sanh; Chính lúc nào đây cũng thấy mình, Cùng mọi kẻ như hình có một. Khi nghe thấy khổ ai vướng cột, Tự nhiên đây gan ruột như bầm. Mất ngủ nghê mất cả ăn nằm, Cứ suy nghĩ phải làm sao cứu; 560. Nhưng tài thiếu đức càng không đủ, Nhiều khi không thành tựu ý nguyền. Càng thấy lòng buồn tủi không yên, Ước sao hễ muốn liền nên được; Hầu hóa độ những người bạo ngược, Bớt khổ sầu qua được nạn tai. Đạo sĩ rằng tâm ấy quí thay! Nhưng dù Đức Như Lai đi nữa; Cũng không thể ra tay cứu chữa, Kẻ xưa nay không chứa phước duyên. 570. Giữa chúng sanh đều có oan khiên, Luật nhân quả công miêng lắm đấy! Vay chi tất phải là trả nấy, Không một ai trốn chạy được đâu; Chư Phật tuy có đủ phép mầu, Cũng không nghịch được câu tội phước. Mọi tai khổ chỉ cho biết trước, Đó là phương cứu vớt chúng sanh; Nếu nghe theo tất được an lành, Bằng trái cải thì đành khốn khổ. 580. Kẻ mắc nạn Phật dù muốn độ, Nhưng họ không hối ngộ chí cầu; D.ù cho lòng muốn độ đến đâu, Cũng không thể làm sao độ được. Lắm kẻ biết làm điều bạo ngược, Tất sa vào địa ngục chẳng không; Họ bảo rằng cũng vẫn vui lòng, Chẳng sợ nể cũng không chừa bỏ. Tội phước có kẻ cho không có, Việc ác gian lớn nhỏ không chừa; 590. Bảo rằng cần thỏa mọi thích ưa, Chết là hết có chi hồn phách. Có kẻ biết đọa siêu rành mạch; Nhưng vẫn làm đủ cách tội tình, Bảo dối rằng vì phận gia đình, Nên không thể tránh mình việc quấy. Có kẻ đã qui y thọ giái, Vẫn không chừa những cái xấu xa, Đem cái tu sơn phết ngoài da, Lừa bá tánh để mà thủ lợi. 600. Những hạng người đã vừa nói tới; Nạn ách thường chờ đợi họ luôn, Họa đến nơi muốn tránh không đường, Như cột mục gặp luồng dông tố. Khi ấy họ phải đền tội khổ; Đức tài bao cũng độ không xong, Vậy khuyên em chớ có buồn lòng; Rằng thiếu đức việc không như nguyện. Rán chỉ cách cho người hướng thiện, Tất nhiên trừ hết chuyện khổ nàn, 610. Thì những điều em đã xốn xang; Sẽ nhờ đó tiêu tan tất cả. Miễn khắp chúng hiền lương một dạ, Có đức hay không há màng chi, Em đã nguyền nối chí từ bi; Đường phổ độ cứ đi chớ ngượng. Treo gương chánh cho đời soi hưởng, Đem lời chơn dạy chúng tu hành; Kẻ chưa thông nỡ dạ bạo hành, Mình cũng nhớ niệm tình hỷ xả. 620. Hết lao lý đến ngày thong thả, Trời há không nổi gió một giây. Chớ ưu buồn thân gởi nước ngoài, Có yêu chúng có ngày trở gót. Đạo trường cửu không như bèo bọt, Chớ lo không gặp cuộc trùng hưng; Nay nơi nào hễ có nhân dân, Cứ đến dạy không phân nòi giống. Đến đâu cũng đạo mầu gieo rộng, Đuốc một cây mồi đặng nhiều nhà; 630. Thật hành câu: tự giác, giác tha, Đi khắp chỗ đâu là cũng thế. Tiện cũng độ không thì cũng tế, Nói cho cùng một kẻ cũng nên; Dân khác nào như nước đang lên, Cảnh trôi nổi trở nên đâu khỏi. Họ chưa rõ cũng cần kêu gọi. Lo thuyền bè chống chọi cho qua, Nếu đợi khi nước ngập trần nhà; Chừng ấy mới bôn ba sao kịp. 640. Chúng sanh khá tu cho kíp kíp; Tránh hung sùng bỏ việc tham lam, Giúp nguy nghèo cứu kẻ khổ kham; Dứt thù oán bỏ tâm nhơn ngã. Nên dắt nhau trên đường đạo cả; Tạo phúc đời trừ họa cho dân, Càng rẽ chia càng tự giết thân; Như bè đứt dây chằng phải rõ. Nước một giọt đâu thành biển cả; Cây đôi que dễ há nên rừng, 650. Thân bao to chẳng có tay chân; Việc chi cũng thập phần bất tiện. Người càng muốn làm cho lớn chuyện; Càng phải nên hợp khuyến cho đông, Một người làm việc cả khó xong; Đời đạo vẫn thế không sai chạy. Già trẻ cũng cần mau hợp lại; Để chống ngăn họa hại dân lành, Những thù nhơ oán chạ đáng khinh; Nên dẹp gác chớ nên cố ý. 660. Nếu được mạnh tinh thần đạo lý, Các xấu xa tất thị tiêu tan; Sẽ thắng qua mọi việc dễ dàng; Khổ nạn khỏi dân bang hưng thới. Đạo sanh họa bởi hành sái lối, Như trồng cây trở cội lên không, Cây héo xào chẳng tại hóa công; Chính tại kẻ đem trồng ngược ngạo. Nếu người cứ thật hành chánh đạo, Nước được yên dân áo được lành, 670. Ai cũng đều biết trị lấy mình; Trọng phép nước và gìn luật đạo. Người thương người ở ăn ngay thảo, Giúp nhau không lừa đảo lẫn nhau, Gặp kẻ nguy biết xả thân vào; Giúp được kẻ chẳng rao ân nghĩa. Mọi người tự kết thân chặt chịa, Tránh nạn chung gây phúc lợi chung, Tuy yếu mà rất mạnh vô cùng; Sẽ lui được tử thần giặc đói. 680. Được đi đúng theo lời vừa nói, Tất nhiên ai cũng gọi đạo chơn, Em mau lo giác đác thiệt hơn; Cho bá tánh tu thân kẻo trễ. Cơ tạo hóa đổi xoay thời thế, Đến rất mau dường thể tên bay, Tuy không không chừng đến chẳng hay; Chớ khi dễ có ngày phải mắc. Vì háo danh khi lơi khi nhặt, Nhưng giờ nầy đã thắt lại rồi, 690. Chỉ kéo mây trong một khắc hồi; Nổi sấm sét dậy trời dậy đất. Mây giăng khắp thì mưa kế rớt, Chỉ nội trong giây khắc không lâu, Việc đất trời vừa lạ vừa mầu; Xưa nay vẫn tròn câu huyền bí. Ví loài kiến thân hình nhỏ tí, Không tâm can tỳ vị như người, Cũng biết bò đi tới đi lui, Gặp mồi biết chạy mời bầy lũ. 700. Đồng loại chết biết lo quần tụ, Xúm nhau khiêng về tổ không buông; Kiến khác loài khi đến xâm luồn, Chúng lại biết kết thân nhau chống. Biết bờ cõi biết yêu nòi giống, Có cả nhân cả dũng cả tình; Thử hỏi người hiện tại thông minh, Có biết rõ mối manh chăng nhỉ. Cơ tạo hóa có đâu giản dị, Càng nghĩ suy càng thấy minh mông; 710. Đến như điều dời biển đổi sông, Sự thường có nào không chớ biếm. Em đã được Phật Ngài chỉ điểm, Cõi nhơn gian biến chuyển thế nào; Các việc đều sẽ có ngày sau, Đâu phải dối nên rao dân biết. Rán tu sớm đừng chờ tới việc, Nhân càng lành tai nghiệt càng xa; Khổ trần gian chỉ một lối ra, Lối ra ấy chính là đạo đức. 720. Thiếu đạo tợ cá kia thiếu nước, Khó tránh qua cảnh xác thây phơi; Thiếu đạo nên mới rối trong đời, Xem xét kỹ tất người thấy rõ. Đạo là mắt của đời để ngó, Mắt nếu không đường ngõ đâu thông; Đạo nói đây là đạo chánh công, Không phải thứ tà tông ma giáo. Chơn Thích-Ca và chơn Khổng Lão, Thật từ bi thật đạo trung dung, 730. Thật tâm vô, không tận không cùng; Tuy ở tục siêu trong thế tục. Gần bùn vẫn mùi bùn chẳng hút, Lòng Phật Tiên nào khác hoa sen, Mang xác phàm sống cảnh đua chen; Vẫn không bị ố hoen một vật. Chơn thật kẻ rành đường sáng suốt; Dắt người không bị dắt bao giờ, Nẻo tử sanh thông thạo bến bờ; Chẳng phải thứ đứa mờ dắt quáng. 740. Nơi sơn đảnh anh dùng đạo nh.n, Thấy trần gian nhiều hạng dối tu, Chính mắt mình chưa hết chứng mù; Dắt cả đám người đui trong tối. Nơi trống trải không tìm thấy lối, Chỗ bịt bùng cứ nối nhau đi, Đến chết mà chưa đạt những gì; Điều nầy rất hại nguy to tát. Hại riêng mình hại nhiều kẻ khác, Còn hại lây đến nước đến dân, 750. Hại nầy to hơn hại Ôn-thần; Càng truyền rộng càng phần nguy hại. Nói đạo lý lòng không bác ái, Xưng tu hành việc quấy không buông; Các quỉ tà cứ ám ảnh luôn, Khiến tâm chí thêm cuồng điều ác. Thấy sanh chúng bị ma giả thác, Càng xem lâu càng bắt đau lòng, Nhưng ngặt vì duyên đạo chẳng đồng; Tuy thương xót nhưng không thể độ. 760. Nên anh mới cùng em hội ngộ, Khuyên em vui chịu khổ xác trần, Để cứu người khỏi bến mê tân; Núi to mấy khó cân công đức. Xưa nay đã từng làm việc Phật, Em cùng người đã rắc sâu duyên, Tất nhiên là lời của em khuyên; Sẽ gợi được giống hiền của chúng. Đời đã mỏng như đèn tim lụn, Trễ một ngày luống uổng một ngày; 770. Em gắng công đường giác nối khai, Sẽ thành việc không sai ý nguyện. Ta cúi đầu cám ơn lời khuyến, Chữ giác dân xin hẹn không quên, Xác nầy còn cũng vẫn tiến lên; Xác dẫu mất cũng nguyền tái thế. Đến chừng nào ngục môn đều phế, Không còn người tồi tệ mới thôi. Nguyện nầy xưa từng đã nguyện rồi, Chưa thành tựu bởi đời gay ngạnh. 780. Lúc nào cũng nằm trong nghịch cảnh, Khó châu lưu khó gạnh hết câu; Đạo sĩ liền gật nhẹ lấy đầu, Hiện như thế ở đâu cũng thế. Xưa ác đạo Ma-vương đã thệ, Phá Phật kỳ mạt-thế cho tan! Lời thệ kia nay đã đến màn, Chúng đâu cũng tràn lan quấy rối. Ngăn hại kẻ đạo mầu rõ mối, Cám dỗ người tăm tối chưa thông; 790. Chúng đặt điều nhạo báng đạo tông, Có đủ cách dứt lòng Phật Thích. Kẻ bị chê hoặc vì công kích, Liền thối tâm bỏ việc tu hành; Người mang tai hoặc khổ thân sanh, Đăm khủng hoảng dứt tình nhà Phật. Chúng ghét cả ai người đạo đức, Chướng ngại cho kẻ phát thiện tâm; Nhưng đã là vi diệu thậm thâm, Đạo Phật vẫn muôn năm sáng tỏ. 800. Càng bó buộc càng nhiều khăn khó, Càng làm thêm cho có cuộc thi. Nếu nhẫn qua được cái khổ nguy, Ngôi đạo quả tức thì sẽ đắc. Không nạn ách không người gay gắt, Thì làm sao biết sắt biết chì; Không cam go chẳng gặp hiểm nguy, Đường Tam Tạng ai đi cũng được. Đây là cũng kể như bàn lược, Càng lắc lư càng được lọc trong; 810. Kẻ quyết tu hay chẳng thật lòng, Giờ nầy mới mắt trông thấy rõ. Lốt che đậy lần lần lột bỏ, Thật tướng ngày càng lộ ra ngoài; Cảnh ngược xuôi đều lợi cả hai; Ấy là lối tùy nghi của đạo. Nên trì chặt đâu nên lui tháo, Đừng để ma khiếp đảo lòng mình, Thua chúng ma tất mất chơn linh; Mất luôn cả nhân sanh giá phẩm. 820. Sống không khiến cho thiên hạ cảm, Thác hồn rơi trong đám Ma-vương, Muôn đời không thấy lối Tây-Phương; Kể sao hết các đường thảm khổ. Hiện tại dứt mất cơ tỏ ngộ, Ngày biến thiên thây bỏ trôi sông, Hoặc thiêu mình trong đám lửa hồng; Chẳng gặp được buổi rồng-mây hội. Tông tổ trách hờn nơi chín suối, Rất uổng sanh ra lối con người, 830. Gặp hội lành chẳng sửa tốt tươi; Để sa đọa vào nơi hắc ám. Dịp báu quí mà không biết nắm, Qua rồi muôn kiếp chẳng tìm ra, Nơi động trung phóng mắt xem qua; Mỗi khi thấy người xa đạo cả. Anh không xiết xót đau trong dạ, Lòng tiếc thương biết tả sao cùng, Càng tiếc vì đời sắp qui chung; Thiện làm một phước đong mười lượt. 840. Đâu cũng có Phật Tiên đón rước, Nếu thật tu ắt được mau thành, Thành đạo rồi hưởng quả vô sanh; Các sóng khổ tức bình tịnh cả. Nếu thiếu đức không thành chánh quả, Cũng được đưa qua cõi Thượng Nguơn, Sống an nhàn với tuổi muôn xuân; Không hoạnh tử không lâm ác bịnh. Không can qua không ai thôn tính, Hạn hán không cơ kỉnh (1) vẫn không, 850. Núi xanh màu sông một sắc trong; Cảnh hòa hảo người đồng hạnh phúc. Gặp hội nầy dễ đâu mấy lúc, Chẳng chịu tu hết cuộc nào tu, Ánh trăng thanh khó cảm người mù; Lời ấy thật chớ đâu vô lý. Theo anh đã vừa qua thiết nghĩ, Phần lớn do chúng quỉ ngăn đường; Vậy em cần dụng gậy Kim cương, Vẹt lối cứu dân đương mê khổ. 860. Trong nghịch cảnh có người ái mộ, Ấy chơn duyên rán độ cho thành; Có khổ lao mà nhớ tu hành, Đâu phải kẻ thường tình được có. Xưa kẻ ấy việc lành lớn nhỏ, ĐÃ từng làm và có hướng tu; Hột giống kía hết lúc ép thu, Sắp nảy nở mới đầu sanh đó. Không trui đốt qua từng lửa đỏ, Sao đúc nên gươm có báu danh; 870. Chịu khổ tu nếu chẳng công thành, Anh thệ mất thân trên thạch động. Lời nầy chẳng phải lời nói khống, Xin em truyền cho chúng nên tin; Rán lo tu cải sửa tánh tình, Chớ ngại lối gập ghình khó bước. Nếu người chưa tạo nhiều việc phước, Trên đầu luôn có Phật Thần che; Ác ma không dám đến lăm le, Cảnh khổ mấy cũng qua khỏi được. 880. Thuyền Bát Nh. Phật ngài chực rước, Khỏi đắm trong biển nước mênh mang, Đạo sĩ liền cất tiếng ngâm vang : 883. Khắp trời tiếng sấm nổ kinh hoàng, Nước dậy gió đùa sóng phủ lan; Núi ngập thú hùm trôi lểnh-nghễnh, Nhà trôi nhân loại nổi làng khang. Người lành Bát nh. thuyền kề rước, Kẻ dữ mập xà cá đến mang; Máu vật máu người làm đỏ nước, Chúng sanh khó tránh đại tai nàn. 891. Đại nàn chẳng có chẳng bình phân, Máy tạo khéo dùng cuộc nước dâng; Bụi bặm trong trần trôi sạch cả, Bợn nhơ trên thế rửa không trơn. Thay sơn hải cảnh thay điền địa, Mới cỏ cây màu mới vật nhơn; Chốc lát trở nên tân thế giới, Bồng lai cũng dám đến so cân. 899. So cân chẳng kém cõi Tiên bồng, Muôn kiếp dễ gì được mắt trông; Kẻ dữ mong xem nên sửa tánh, Người lành muốn gặp rán trau lòng. Ít nhiều phước đức lo đừng bỏ, Hôm sớm Di-Đà niệm chớ không; Lao khổ dù bao xin gắng chịu, Đạo mầu sẽ thỏa chí cầu mong. 907. Cầu mong khi được hẳn lòng vui, Quả đạo nhớ vun đến lúc mùi; Thuận gió thì càng cho tiến tới, Ngược dòng cũng chớ để quầy lui. Siêu phàm chí nguyện hằng ôm ấp, Đắc đạo tâm thề vẫn nắm nuôi; Sau trước khư khư như sắt thép, Nhiệm mầu có thuở được phanh phui. 915. Phanh phui được hết máy âm dương, Sanh tử tự tay nắm mối giường; Mình nhẹ nhẹ sao không khác gió, Lòng trong trong đến giống như gương. Ái ân hết buộc cho sầu khổ, Danh lợi thôi làm phải khóc thương; Ở thế nhưng ra ngoài cõi thế, Thần Tiên cũng bước một con đường. 923. Con đường Tiên Thánh khác đường phàm, Nơi chốn trần ai khắp nữ nam; Có lỗi ít nhiều nên sám hối, Điều nhân nhỏ lớn rán lo làm. Nhớ câu tội phước chừa lòng ác, Sợ lẽ luân hồi bỏ tánh tham; Hôm sớm lo tu theo chánh đạo, Đua bơi việc quấy cũng nên nhàm. 931. Nên nhàm thói xấu của người đời, Ai cũng chẳng qua mấy tất hơi; Còn thở hơn thua bàn đủ lẽ, Hết hơi thắng bại nín không lời. Cảnh đời đâu ngỡ như là mộng, Mạng sống nào hay tợ bóng trời; Luống uổng đem tâm mưu vạn sự, Việc chi rồi cũng trút theo hơi. 939. Theo hơi sống cũng theo hơi tàn, Hơi nắm quyền trong khắp thế gian; Xét cạn há không đăm chán nản, Suy rành đâu chẳng khiến buồn than. Rán tu để khỏi vòng sanh tử, Cần tỉnh cho qua khắp khốn nàn; Chớ nhiễm say theo trò giả tạm, Vật không trường hưởng tội đeo mang. 947. Đeo mang nghiệp tội phải đầu sanh, Mang xác trần ai lắm nhọc nhành; Già bịnh làm thân mãn tợ đục, Lo sầu khiến trí rối như đnh. Điều nào vừa ý không hay gặp, Những việc trái lòng cứ vấn quanh; Khổ thảm nhiều hơn là vui sướng, Muôn xưa như kiếp hiện thân hành. 955. Hiện hành có Phật giáng lâm trần, Nếu biết hồi đầu chuyển phước duơn; Khỏi kiếp đau sầu ngày Mạt thế, Được thân khoái lạc buổi Tân nguơn. Nhà Tiên cư trú không già bịnh, Cảnh Phật nương kề chẳng chuyển luân; Kỳ chót dễ đâu tìm gặp được, Lo tu cho kịp hội Phong Thần. Đạo sĩ vừa ngâm xong và nói, Ai muốn xem được cõi Thần Tiên; Cũng nên mau chịu khó làm hiền, Đem cảnh khổ đổi miền Cực lạc. Dịp hiếm có đừng chờ khi khác, Rán lo tu để thoát ngục trần; Giữa núi rừng mà có các lân. 970. Nơi đồng áng phồn hưng phố xá, Dành thưởng kẻ biết lo hối hóa (2); Há không mau sửa dạ hiền lương, Riêng cứu thân còn độ song đường. Hết lao khổ được cơn khoái lạc, Gặp bầu nước trong khi đang khát. Hãy mau tay ôm chặt vào lòng, Lúc mê lầm gặp đạo phổ thông Không vui học còn trông chi nữa, Thân khi dơ biết nhờm đi rửa. 980. Tâm thấy hèn chẳng sửa cho mau, Đời nay thường phía mặt chùi lau; Ít ai chịu giồi trau bề trái, Ngoài sạch sẽ trong lòng dơ dáy. Vẫn để yên chẳng lấy làm nhờm, Khác người xưa trong giữ cho thơm; Bề ngoài ít ai cần săn sóc, Cũng hình người cũng đồng xương hóc Nhưng tâm tình khí cốt khác nhau, Càng nhìn lâu càng bắt đớn đau; 990. Cảnh tang tóc bảo sao to tát, Tuy nhiên ở dưới từng sỏi cát. Có nhiều vàng rải rác đó đây, Bỏ trôi chìm thì rất uổng thay; Em cũng rán ra tay đãi lấy, Hết bỉ cực tới ngày thạnh thái. Xin đừng buồn khi trải nắng mưa, Em nhớ chăng độ bảy năm xưa; Cũng đang lúc thời cơ rối rắm, Em đã chán muốn về sơn Cấm. 1000. Chẳng muốn nằm trong cảnh tương tàn, Khi ấy liền có Phật Tây phang; Đêm thanh vắng bên màn hiện đến,
|
| | | Administrator Administrator
Vào Cửa Hàng Pet Posts : 960 Points : 43160 Thanked : 22 Ngày tham gia : 28/07/2011
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ August 15th 2020, 18:26 | |
| - vnhdp3:
Rằng con rán đưa người tới bến. Có cam go mới hiển đạo mầu, Không tối tăm đuốc dụng vào đâu; Có ác mới có câu khuyến thiện, Huống đã thọ ân Thầy như biển. Phải rán lo đáp vẹn trọng ân, Nên thương người như thể thương thân; 1010. Lo dạy dỗ chớ đừng buồn chán, Bởi dốt nát nghĩa mầu chẳng hãn. Mới dắt nhau đến đoạn máu rơi, Há không thương để giảng cạn lời; Sao lại muốn về ngồi thạch động, Người chết hết riêng mình còn sống. Chẳng buồn sao? Chẳng động tâm sao? Hiện chúng sanh đang rớt dưới ao, Giờ không cứu chừng nào mới cứu. Lòng con chán động trên Linh-Khứu; 1020. Phật đến đây khuyên chớ qui sơn, Lấy từ bi lưu lại trong trần. Vớt được một linh căn cũng phải, Đời mạt pháp thú cầm chi loại; Còn biết tu cho giải nghiệp oan, Huống loài người có trí khôn ngoan. Há chẳng biết tìm đàng đạo đức, Con chớ ngại cứ lo khuyên dứt (3); Sẽ còn nhiều người biết hồi đầu, Hội Long hoa sẽ chẳng còn lâu. Rán giúp chúng về chầu chư Phật, Phật nói xong hóa quang bay mất; Văng vẳng lời kệ rất siêu mầu, Từ xưa nay dễ mấy ai đâu. Được mật giáo cao sâu lời kệ, 1035. Con lành hiểu máy Thiên, Thanh trược rất tường Tế; Đắc thất cứ lo Hoằng, Đạo đời luôn vẹn Thệ. Kẻ dốt chỉ đường Khai, Sĩ hiền bày cửa Huệ; Thành bại vẫn độ Nhơn, Công đức siêu trên Thế. Vắng bóng Phật hương còn lưu để, Mùi thơm tho khắp cả gian phòng; Em như vừa mới tỉnh giấc nồng, Vừa cảm đức vừa lòng kinh hãi. Lời ấy há em không nhớ lại, Để sớm hôm bơi chải cứu đời; Nếu trễ qua chẳng kịp cơ trời, 1050. Thương bá tánh nổi trôi biển cả. Ta cúi đầu cảm lời quí hóa, Đúng như lời Ngài đã nhắc qua; Trước kia vì gặp cảnh nồi da, Đây vừa thẹn vừa là chán ngán. Muốn qui sơn ngồi trên đá tảng, Tịnh thiền cho đến đoạn khí trần; Cảnh giết nhau lòng chẳng muốn gần, Khi đó Phật hiện thân bảo thế. Ân đức ấy lấy chi so kể, 1060. Đây vẫn còn ghi để không quên; Cũng đồng như cảnh tượng ở trên, Đây vừa mới nghĩ nên bỏ xác. Liền có Ngài hiện ra trước mắt, Đem nhiều lời châu ngọc dạy cho; Khiến cho lòng thêm nỗi âu lo, Ân nặng biết sao cho vẹn được. Thân gầy lại đang nhiều trái ngược, Việc khó làm nên được ý mình; Nếu cánh buồm bị gió xé banh, Ân chẳng vẹn cơ duyên cũng lỡ. Lại đang cảnh cửa nhà đồ sộ, Cột bé e khó đỡ vững vàng; Nói tới đây Đạo sĩ chặn ngang, Liền cất giọng kệ vang như kiểng. 1075. Lái một thuyền lớn ngàn, Chuyển đi khắp hải giang; Tượng một con tuy ít, Kéo được gỗ đầy đàng. Mặt trời vẫn có một, Soi sáng khắp trần gian; Đừng buồn thân lẻ một, Nhỏ dầu có sức lan. Bảo tiếp rằng khắp trong nhân vật, Thăng hay trầm chỉ một lần nầy; Dễ siêu mà cũng dễ đọa đầy, Khá giúp họ khỏi sai đường lối. Thành Tiên Phật luôn luôn nhàn rỗi, Rớt quỉ ma mãi mãi lao lung; Được làm người ấy cũng bực trung, 1090. Rơi vào loại côn trùng tối hạ. Lành ắt siêu, dữ thì phải đọa, Chơn chánh nên, giả trá thì hư; Tà bất công, chánh vẫn vô tư, Thân dù khổ miễn người vui được. Việc lớn nhỏ cũng vì dân phước, Chánh đó ư! và phước đó ư! Tuy giải bày có lắm ngôn từ, Kết luận chỉ mấy lời nói đó. Nhiệt tâm có tất làm chẳng khó, 1100. Em nhớ khuyên đời chớ ngại nghi; Và riêng em khá bớt ưu bi, Cây một cội chung qui nhiều trái. Còn cơ duyên xác còn tồn tại, Dù trải qua đèo ải bao phen; Chớ ngại chi thân thế yếu hèn, Trong hèn yếu có chen cứng mạnh. Đừng nệ khó cũng đừng than bịnh, Máy Trời kia đã định từ lâu; Lúc em vừa mười sáu tuổi đầu, 1110. ĐÃ thấy bóng nhiệm mầu có phải? Có một vật sáng xanh hình thái, Thường đêm bay qua lại trong màn; Đẹp như sao sáng sắc dịu dàng, Nh.n lâu mấy không chan chói mắt. Em đã lắm lần đưa tay bắt, Nhưng không hề nắm được một lần; Kỳ diệu thay vật thấy rất gần, Vói lấy mãi bao lần không đụng. Tuy quái lạ em không kinh khủng, 1120. Trái lại cho Phật dụng phép mầu; Khi ấy lòng em rất tin sâu, Sự đạo lý bắt đầu tinh tấn. Tâm thường sáng hơn thường muôn bận, Đêm đêm tai nghe giảng đủ lời; Lẽ thạnh suy bĩ thới trong đời, Đâu chánh giáo đâu nơi tà đạo. Nghe không sót những lời châu báu, Chơn Thần luôn đi dạo khắp phương; Như nào là Địa ngục Thiên đường, 1130. Cảnh vui khổ đã từng thấy rõ. Điều ấy rất ít người tìm có, Em há không cho đó phi thường; Vật sáng kia là Định Minh Cương, Phật dùng để ngăn đường tà quái. Hộ em lúc xác còn thơ dại, Mà lòng tu sớm lại phát sinh; Để khỏi loài yêu quỉ trá hình, Hại mạng hoặc dắt khuynh đường ác. Còn đến chuyện khi ngâm khi hát, 1140. Em thường nghe réo rắt bên tai; Cũng là do nơi Đức Phật ngài, Mượn lời ấy để khai đạo khí. Có nhuần thắm được mùi đạo lý, Giúp cho em thần trí sớm khai; Để em dìu bá tánh sau này, Được tỉnh giấc mê say lầm lạc. Người của em từ hồn lẫn xác, Hầu hết nhờ Đức Phật săm soi; Giúp cho em tất giúp cho đời, 1150. Bởi em với mọi người hữu thệ. Lúc ấy Phật rõ ngày hậu thế, Dùng Định Minh Cương vệ thân em; Có phải chăng mỗi lúc em xem, Vừa hớn hở vừa thêm tin tưởng. Phật khéo giúp sâu xa ảnh hưởng, Đạo sớm nên, tâm lượng sớm khai; Kẻ thọ ân to lớn thế này, Há chẳng nhớ đêm ngày lo trả. Nghe đến đây bồi hồi trong dạ, 1160. Nhớ lại khi thấy quả minh châu; Mỗi đêm thường bay múa trên đầu, Sáng chẳng chói xem lâu thấy mến. Mỗi ngày ta chờ cho đêm đến, Để cùng vui với ánh sáng xanh; Lòng mộ tu lại gặp điềm lành, Ta không xiết kính tin mừng rỡ. Chuyện lạ tự lòng mình hiểu nhớ; Không đem ra nói hớ cho ai; Kể cũng là mười mấy năm dài, 1170. Nay được nhắc đến tai mới nhớ. Ta vừa cúi đầu vừa lời mở, Vật lạ kia thật có như lời; Đây không nhờ vật ấy đến nơi, Chưa ắt trở nên người tu niệm. Thêm được có những lời chỉ điểm, Tai đây thường nghe đến ngày đêm; Khiến cho lòng tinh tấn càng thêm, Trọng đạo đức hơn trên vật tạm. Ân ấy khiến lòng đây quá cảm, 1180. Sớm hôm lo bái sám không rời; Nói đến đây Đạo sĩ ngăn lời, Rằng : em nhớ đang hồi khi ấy. Em có viết một bài tấu khải, ĐÃ gởi cho thập giái Phật Tiên; Chứng cho em có những lời nguyền, Gánh bớt khổ dân trên quả đất. Noi Thất tổ chỉ đường tu Phật, Nguyện đến loài súc vật côn trùng; Nghe tiếng em hoặc thấy hình dung, 1190. Liền cảm mến phát lòng mộ đạo. Ngày nào còn có người khổ não, Em còn lo chỉ giáo không thôi; Thà vui lòng cõi Phật mất ngôi, Không vui bỏ một người nào khổ. Em còn nguyện mẹ cha tông tổ, Bảy đời qua được độ siêu thăng; Khi nguyện rồi em có nhớ chăng, Một ánh sáng bay băng ngang mặt, Lại có mùi thơm tho nồng nặc. 1200. Lúc ấy em rởn óc cả người, Vừa vui mừng vừa sợ oai Trời; Không hình ảnh vô hồi mầu nhiệm, Ánh sáng ấy Phật ngài chứng điểm. Những lời em đã nguyện đấy ư. Chẳng thành tâm nguyện đến bao chừ, Cũng khó thấy được nơi điềm quí. Ta liền thưa : thật là trúng lý, Tâm của đây lúc ấy thật nguyền; Nên cảm lòng của các Phật Tiên, 1210. Sau khi nguyện thì liền ứng chứng. Từ ấy đây hằng lo bổn phận, Sao vẹn tu? Sao trọn lời nguyền; Rồi bỗng nhiên nầy đến bỗng nhiên, Nhờ các đấng thiêng liêng chỉ bảo. Đạo sĩ rằng thời cơ đã báo, Phật Tiên thường mật giáo chư duyên; Mượn xác phàm hoặc mượn bút nghiên, Tùy cơ để dạy khuyên trần thế. Mau hơn việc đầu sanh cơ thể, 1220. Độ chúng sanh khỏi trễ thời trời; Mượn một tay đã độ một người, Mượn nhiều xác tỉnh hồi nhiều kẻ. Vừa phương tiện cũng vừa mau lẹ, Đạo sĩ liền ngâm kệ như vầy: 1225. Hiện tại ở trên quả đất này, Bất kỳ thông dốt gái hay trai; Có duyên Phật, Phật sang dìu dắt, Còn nghiệp ma, ma đến phủ vây. Gieo giống xưa lâu nay vẫn nở, Tạo nhân xa trước hiện đền ngay; Lành thì lành đến, hung hung tới, Quái lạ có nhiều cuộc trí vay. Đạo sĩ luôn tiếp lời nhẹ bảo, Nhân ngàn năm quả đáo nhứt thời; Người lành duyên sẽ lắm vui tươi, Thương kẻ ác vô hồi khổ nạn. Sổ vay trả cuối năm thanh toán, Nghiệp dữ lành rốt hạn chia phân; Có duyên Thần thì được gặp Thần, 1240. Có duyên Phật sẽ trông thấy Phật. Duyên ma quỉ tất ma quỉ dắt, Giống nào thì nấy gặp không sai; Cảnh trần gian quá đổi vần quay, Nhiều sanh lạ nhiều người chết lạ. Buổi Mạt thế quái kỳ nhân quả, Để mắt vào dễ há không kinh. Thêm có nhiều tà phép hữu linh, Kẻ đã chết kêu tên sống dậy. Tự chặt tay chân rồi ráp lại, 1250. Không đớn đau không chảy máu me; Chúng có nhiều quỉ thuật bày khoe, Kẻ mê tín nếu nghe thì khổ. Nhiều kỳ chứng kể thôi vô số, Thương bá gia không chỗ nào an; Kẻ hiện sanh trên cõi trần hoàn, Ai cũng phải nạn mang nhiều ít. Trò văn vật càng nhiều khuyến khích, Sự ác gian càng chất thêm cao; Càng ăn sang mặc đẹp chừng nào, 1260. Hố tội lỗi thêm sâu chừng nấy. Bên sau lẽ cạnh tranh thắng bại, Chẳng ai lo lợi hại xác hồn; Nhiều kẻ mưu thân được sanh tồn, Trái lại tự làm hồn tiêu diệt. Tuy đang sống mà người đã chết, Nhưng họ không tự biết chi đâu; Bữa tiệc ngon dễ bị lấy đầu, Chẳng tìm hiểu cứ bâu cười múa. Đem muôn kiếp đổi vui một bữa, 1270. Lại tự cho sáng suốt khôn ngoan; Gi.i đục chui trong đám xương tàn, Đâu bền bĩ đâu rằng êm ấm. Nếu sanh chúng để lòng suy gẫm, Thấy chán đời hơn đắm cảnh đời; Chán lớp tuồng giả dối gạt người, Chán thời cuộc lửa vùi mái trại. Chán kẻ khôn vò đầu đứa dại, Chán lòng người nỡ hại mạng người; Chán bên trong xã hội hiện thời, 1280. Đầy tội ác nặc mùi hôi thúi. Coi mạng người rẻ như cát bụi, Chán thân mãn như củi trong lò; Dù mưu cho phú quí bao to, Không sống mãi để mà bảo vệ, Chán cái kiếp vua quan dân thế, Ai cũng đều nô lệ cho thân; Nó khiến lo tính đủ thế thần, Rốt cuộc chỉ ra phân cỏ ủ. Những mặc đẹp ăn ngon sướng thú, 1290. Cũng chôn theo cốt rũ xương tàn; Có cái nào còn được thế gian, Kiếp tạm giả phải chăng đáng chán. Làm tội ác không trường hưởng đặng, Mang tiếng đời lại vấn nghiệp mê; Hết thân nầy rồi kế thân kia, Sanh tử mãi không hề ngừng đứt. Chi bằng biết thân là tạm vật, Chớ vì thân tạo nghiệp bất lành; Hãy mượn thân lo việc tu hành, 1300. Ngăn dứt lối tử sanh luân chuyển. Hiểu rõ kiếp người không trường viễn, Nên đỡ nâng hơn chuyện gạt lường; Phải thương nhau và phải hộ tương, Hợp sức mở rộng đường sanh sống. Chống bịnh tật đói nghèo cũng chống, Không ai vui riêng sống một mình; Giàu giúp nghèo quan giúp dân tình, Mạnh giúp yếu khôn nên thương dại. Buôn nhẹ lời cho vay nhẹ lãi, 1310. Sống cho mình còn phải cho người; Đua nhau làm hiền đức tốt tươi, Sẽ khiến chẳng còn người hèn hạ. Đời đâu cũng bình yên thong thả, Thù oán không chiến họa cũng không; Khi thác hồn luôn được thong dong, Lúc sống khắp người lòng yêu mến. Điều nầy nếu mỗi người đạt đến, Ấy là phương dĩ huyễn độ chơn; Đem giả thân đổi lấy chơn thân, 1320. Gió nghiệp lặng sóng trần ngưng hạ. Huống cõi thế sắp ngày tàn tạ, Cái phàm thân như giá rựng đông; Thân mất rồi muôn việc cũng không, Luống mưu độc luống công làm ác. Sớm tu ắt sớm ngày giải thoát, Biết khổ lo cho được khổ qua; Lửa cháy bao không chịu bước ra, Như thế có phải là tự sát. Chỉ một nhịn khỏi muôn lần thác. 1330. Đời ít ai chịu xét để làm, Cứ lo ôm mãi cái lòng tham; Tham phú quí tham đàng danh vọng, Tham sắc đẹp tham nhà cao rộng. Tham bạc tiền tham sống tư riêng, Do lòng tham tội lỗi chẳng kiêng; Đêm ngày cứ tiếp liên điều ác, Giết hại người của tiền cướp đoạt, Hưởng đôi hồi rồi thác như ai, Vẫn cứ tham vẫn cứ mê say, 1340. Nối nhau mãi đời đời không dứt. Cha chết rồi kế con cũng mất, Cháu bỏ thây tới chắc chôn thân; Chồng qua đời kế vợ tạ trần, Vua chúa chết quan dân cũng chết, Kẻ chết rồi lợi danh cũng hết, Ai lại không rõ biết điều này; Chẳng ngán ngao còn mãi mê say, Mê qua, đến mê nầy mê tới. Cha mê kế lại con mê nối, 1350. Từ xưa nay một lối đi hoài; Thân tham danh tham sắc tham tài, Tiêu mất cả có ai còn sống. Trái lại do nơi lòng tham vọng, Chịu biết bao khổ chốn Ta-bà; Lòng tham nầy nếu nhịn được là, Các việc khổ xảy ra sao được. Đạo-sĩ tiếp kệ nghe thảnh thót: 1358. Lòng tham là gốc khổ, Tham dứt khổ đâu có; Việc tu chẳng nói nhiều, Không tham là đạo ngộ. Tham nầy là tham ác, Không phải tham phước đức; Nên càng nhiều lòng tham, Càng khổ bao giờ dứt. 1366. Biết rằng tham là hại, Nên khuyên khắp nhơn loại; Nếu muốn được an vui Lòng tham mau chừa cải. Tại sao người lại tham, Tại lòng mến thân phàm; Nhưng phàm thân vốn tạm, Tham mấy cũng không kham. 1374. Vì lòng tham danh lợi, Nên khắp trên thế giới; Chỗ nọ tới chỗ kia, Chiến tranh thường dấy khởi. Tôi phản chúa cướp ngôi, Bạn hại bạn lấy lời; Người giết nười đoạt của, Do lòng tham khiến xui. 1382. Danh mất thân cũng mất, Mất dân mất cả đất; Bị người đời chê cười, Cũng tại lòng tham ác. Vì tham bị tham hại, Người đời tham qua lại; Cảnh khổ cứ triền miên, Càng xem càng kinh hãi. 1390. Hiện trên mặt đất nầy, Chiến họa ướm đó đây; Mạng dân như hũ mắm, Cũng lòng tham tạo gây. Đã gọi tham là khổ, Sự khổ kể vô số; Biết nói sao cho cùng, Tham tâm nên sớm bỏ. Lời Đạo-sĩ tuôn như suối đổ, Nói không ngừng ý rõ lời thông; 1400. Sau khi ngài ngâm kệ vừa xong, Ta rằng : đúng như trong lời kệ. Nếu khắp cả người trên dương thế, Đồng dứt lòng tồi tệ tham lam; Thì đâu còn có kẻ tục phàm, Binh lửa khỏi tai nàn cũng khỏi. Không ai rách cũng không ai đói, Thế giới nầy hóa cõi Thần Tiên; Từ thôn quê cho đến thị thiềng, Đâu đâu cũng bình yên vô sự. 1410. Tự như nhiên dứt đường sanh tử, Người là Tiên, Tiên thị là người; Cũng sẽ không biển đổi non dời, Nguơn nào cũng màu trời thanh bạch. Đạo-sĩ rằng: em phân đúng cách, Khắp người không tham tất thái bình; Đâu có ngày đất ngửa trời chinh, Người nào cũng là Tiên là Phật. Điều nầy có lắm người nhận thức, Nhưng thiếu lòng cương quyết thi hành; 1420. Nên bao lâu việc cũng chẳng thành, Ta rất tiếc nhơn sanh ấy lắm. Muôn kiếp khó hiểu chơn-lý đặng, Khi hiểu rồi mà chẳng làm theo; Chừng khi thân tan rõ như bèo, Trí hiểu ấy làm sao kiếm lại. Đâu mỗi kiếp mỗi làm người mãi, Thảng sanh vào thế giới thú cầm; Sống ngu đần sống kiếp tối tăm, Trí minh mẫn đâu làm sao có. 1430. Huống nữa nếu sanh loài sâu bọ, Hiểu biết càng thâu nhỏ lại hơn; Sớm sanh chiều lại chết mất thân, Câu chơn-lý đâu từng nghe được. Sao lại cứ biết xuôi làm ngược, Ấy phần đông nhân vật thế gian; Khổ nàn thêm chất chứa khổ nàn, Đem dầu chữa lửa đang mạnh ngọn. Thần chết vẫn bên mình chờ đón, Nay lầu cao mai chốn hố sâu; 1440. Mới vui say kế chịu thảm sầu, Vừa cười đó kế âu khóc đó. Chúng sanh thể cá nằm trong rọ, Há không tìm đường ng. trốn đi; Đợi đến người đem chặt vảy vi, Mới lo liệu việc chi đã muộn. Phải lo tu trước khi nước cuốn, Rán làm lành lúc chẳng tai ương; Đừng để khi gặp cảnh thê lương, Mới trực tỉnh không phương nào kịp. 1450. Việc khi đến đến mau như nhíp, Đừng rằng chưa thấy việc đổi thay; Thấy trứng gà lành vỏ bên ngoài, Chớ tưởng nó còn dài ngày tháng. Trong trứng có gà con chờ sẵn, Chỉ phút giây phá trứng chun ra; Máy thiên cơ cũng thế đâu xa, Vỏ quả đất vỏ gà rất giống. Hãy xét kỹ rồi tu mau chóng, Đến việc rồi hết dụng Nam mô; 1460. Người thường trông thấy việc đã phô, Không biết được những đồ còn đậy. Bầu hư không vô biên thế giới, Ngày đêm luôn có cõi hoại tiêu; Tợ trên cây bất luận sớm chiều, Thường có lá úa xào mãi mãi. Có hình thể tất là có hoại, Quả đất cùng nhân loại như nhau; Hết kiếp rồi thì cũng tiêu hao, Chớ đâu phải sống lâu vô hạn. 1470. Vạn vật phải theo cơ chuyển hoán, Có thứ nào giữ đặng trường tồn; Chớ cho rằng đất rộng mênh mông, Vững chắc mãi chớ không sao cả. Lớn thế mấy rõ thời cũng rõ, To dường bao khi hạ hạ ngay; Người có xem cảnh sụp đất đai, Tất hiểu được trong đôi phần đấy. Nhà gạch lắc lư như nhà giấy, Người té lăn khó chạy đứng yên; 1480. Rồi tự nhiên lửa dậy khắp miền, Đất bằng bỗng sụp nên biển giả. Ngoài tưởng tượng của người tất cả, Việc nầy ai lại há không nghe; Chúng sanh luôn sống phút không dè, Lấy việc nhỏ để mà hiểu rộng. Cơ tận thế khác nào đất động, Một phút giây đâu cũng tan hoang; Rán tu hành nầy bớ thế gian, Chớ ngần ngại ắt mang tai ách. 1490. Vì thương chúng mới phân tách bạch, Em nhớ đem trao hết cho người; Khá gắng công chớ có biếng lười, Ngày cứ đến bóng trời không đợi. Lo trước để sau rồi khó hối, Phúc đức là nguồn cội sanh tồn; Phúc đức là then Cực lạc môn, Chúng sanh rán lo nôn phước đức. Thí không tiếc ấy là gọi phúc, Thương người như thân tức đức ư, 1500. Không cần đem nói hết kinh thư, Bao nhiêu đó đủ dời phúc đức. Mong sanh chúng được lòng chân thật, Làm việc chi cũng ắt thành công; Nói rồi làm đừng bỏ nằm không, Lớn hơi chậm nhỏ trong chốc lát. Đạo sĩ liền ung dung cất hát : 1507. Bắc thang phước đức đăng Tiên, Nắm dây thành thật leo lên Phật đài; Quyết lòng tu một kiếp nầy, Đạo mầu được đắc Như Lai được kề, Nhẹ mình lướt khỏi sông mê, Trái oan hết buộc não nề dứt xong; Độ siêu cha mẹ tổ tông, Độ luôn quyến thuộc khắp trong bảy đời. Mình vàng có ánh sáng ngời, Long Hoa hội được chung ngồi Phật Tiên. Chuông đạo đức đánh lên khắp chốn, Kẻ lành duyên phản bổn qui căn. Các gông cùm thế tạo đều quăng, 1520. Phi thân đến cung Hằng cho thỏa; Lúc mê muội gặp đường đạo cả, Như đói lòng gặp quả đào Tiên. Há lòng không mừng rỡ tu hiền, Cởi mở hết oan khiên nghiệp báo; Xưa tu mười mới là đắc đạo, Nay một tu vẫn đáo Tây Phương. Đức từ bi hỉ xả không lường, Chúng sanh cũng khá nương đạo pháp; Ngăn thói tục ngăn lòng ô tạp, 1530. Tập nói lành tập việc làm lành. Quen thật thà hơn thói gian manh, Cách đi đứng ngồi nằm đoan chánh; Mang xác phàm tập cho lòng Thánh, Giồi mài cho đúng hạnh chơn tu. Ngày hai thời vẫn nhớ công phu, Thà bỏ xác đường tu không bỏ; Muốn cho ngọn tâm đăng sáng tỏ, Sáu căn đừng cho gió trần vào. Rèn nơi lòng bất luận lúc nào, 1540. Cũng trong lặng như thau nước lóng;
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Hiển Đạo - Thanh Sĩ | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |